07/05/2023
🐉 VẠC MẮT TRỜI VÀ CÂU CHUYỆN VỀ ĐẤNG PHẠM THIÊN 🐉
Phạm thiên hay Đại Phạm thiên là vị thần sáng tạo của vũ trụ này, giống như Thượng đế hay Sáng tạo chủ. Vị thần Brahma là một trong ba vị thần nổi tiếng của đạo Hindu, hai vị còn lại là thần Vishnu và thần Shiva. Brahma là cha của Manu, con người đầu tiên trên thế gian này và từ đó loài người được sinh ra. Do đó, Phạm thiên được tôn thờ như là đấng sáng tạo và sinh ra loài người. Hình tượng Phạm thiên trong Hindu giáo luôn là một vị thần có bốn mặt và bốn cánh tay. Bốn mặt chính là tượng trưng cho bốn bộ Veda (Vệ-đà)[2] và bốn cánh tay đại diện cho bốn hướng chính (Đông, Tây, Nam, Bắc). Không giống như nhiều vị thần Hindu khác, thần Brahma không mang bất kì vũ khí nào trong tay. Một tay cầm vương trượng, tay còn lại ông cầm quyển sách, tay cầm một chuỗi tràng hạt, và tay nữa còn lại cầm kinh Veda. Ý nghĩa của các tay và các pháp khí được lý giải như sau:
Bàn tay phải phía sau biểu thị cho tâm trí, bàn tay trái phía sau biểu thị cho trí tuệ, tay phải phía trước là bản ngã và bàn tay trái phía trước là sự tự trọng.
Chuỗi tràng hạt biểu tượng cho vật chất trong quá trình sáng tạo nên vũ trụ.
Kinh sách biểu tượng cho sự thông tuệ.
Vàng biểu tượng cho sự tích cực; gương mặt bằng vàng của Brahma biểu thị quá trình tích cực của sự sáng thế.
Thiên nga là biểu tượng của ân điển và sự sáng suốt. đây là phương tiện di chuyển của Brahmā.
Vương miệng của Brahma biểu hiện quyền lực tối cao của thần.
Hoa sen biểu tượng cho tự nhiên và các sinh thể sống trong toàn vũ trụ.
Râu của Brahma có màu trắng hay đen biểu tượng cho sự khôn ngoan và sự sáng tạo vĩnh cửu.
Phạm thiên hay Đại Phạm thiên được coi là vị thần sáng tạo của vũ trụ này, giống như Thượng đế hay Sáng tạo chủ.
Theo quan niệm của Hindu giáo, Phạm thiên hay Đại Phạm thiên là vị thần sáng tạo của vũ trụ này, giống như Thượng đế hay Sáng tạo chủ. Vị thần Brahma là một trong ba vị thần nổi tiếng của đạo Hindu, hai vị còn lại là thần Vishnu và thần Shiva. Brahma là cha của Manu, con người đầu tiên trên thế gian này và từ đó loài người được sinh ra. Do đó, Phạm thiên được tôn thờ như đấng sáng tạo và sinh ra loài người. Hình tượng Phạm thiên trong Hindu giáo luôn là một vị thần có bốn mặt và bốn cánh tay. Bốn mặt chính là tượng trưng cho bốn bộ Veda (Vệ-đà)[2] và bốn cánh tay đại diện cho bốn hướng chính (Đông, Tây, Nam, Bắc). Không giống như nhiều vị thần Hindu khác, thần Brahma không mang bất kì vũ khí nào trong tay. Một tay cầm vương trượng, tay còn lại ông cầm quyển sách, tay cầm một chuỗi tràng hạt, và tay nữa còn lại cầm kinh Veda.
Trong tín ngưỡng tôn thờ của người Thái, hình tượng thần Brahma hiện lên với bốn khuôn mặt và tám tay
Khuôn mặt chính diện là biểu tượng cho Từ, sau đó thuận theo chiều kim đồng hồ là Bi, Hỷ và Xả.
Khuôn mặt Từ biểu tượng cho học nghiệp, chức nghiệp, danh tiếng và địa vị,
Khuôn mặt thứ hai (thuận kim đồng hồ) đại biểu Bi là chuyên về ái tình, hôn nhân và quan hệ giao tiếp,
Khuôn mặt thứ ba biểu hiện cho Hỷ là về thu nhập và phú quý,
Khuôn mặt thứ tư biểu hiện cho Xả là sức khỏe và tiêu tai giải nạn.
Một tay đặt trước ngực thể hiện sự che chở, bảo vệ;
Tay cầm Niệm Châu biểu hiện sự làm chủ luân hồi;
Tay cầm bình nước giải khát khao, có cầu tất có ứng;
Tay cầm quyền trượng thể hiện sự thành công tột đỉnh;
Tay cầm bánh xe ánh sáng (Minh Luân) thể hiện phá tan phiền não, đau khổ, chết chóc;
Tay cầm Pháp Loa;
Tay cầm Phật kinh thể hiện tài năng, trí tuệ;
Tay còn lại cầm Lệnh Kỳ thể hiện Quyền lực.
Riêng về Phật giáo, Phạm thiên là vị đã chứng đắc được các tầng thiền định, nếu không bị hoại thiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh lên các tầng trời Sắc giới tương ứng với tầng thiền mình đã chứng đắc.
Theo Vũ trụ quan Phật giáo, thế giới sinh diệt theo luật Nhân quả, không do đấng nào sáng tạo ra cả. Và Brahmā chỉ là vị Đại thiên thần được sinh ra trước hết trong một chu kỳ thế giới này, nên tưởng rằng mình là sáng tạo thế giới, là chủ thế giới, nhưng thực ra cũng chỉ là một chúng sinh, dù cao quý hơn hẳn nhưng cũng không phải vĩnh cửu, không phải Thượng đế. Brahmā cũng nằm trong vòng sinh tử luân hồi, cũng chịu luật Nhân quả chi phối, có sinh và cũng có diệt. Vũ trụ này có sinh rồi cũng có diệt, và Brahmā cũng thế.
Chính trong kinh " Phạm võng ", Đức Thế Tôn đã kể lại rằng, khi thế giới này tiêu hoại xong, một thế giới mới mẻ được tạo thành và lúc đó trên tầng Phạm thiên giới có một vị Phạm thiên xuất hiện trước tiên, sống một mình tại đây, vị ấy được gọi là Đại Phạm thiên. Vì sanh ra trước nhất nên vị ấy nghĩ rằng: “Ta là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Những loài hữu tình ấy do chính ta sanh ra”(2). Vị Phạm thiên đầu tiên này lại có được thọ mạng lâu dài hơn, diện mạo xinh đẹp tốt tướng hơn, uy quyền nhiều hơn những Phạm thiên khác. Rồi những Phạm thiên khác cũng nghĩ rằng chúng ta được tạo ra từ vị Phạm thiên này bởi vì chúng ta đến sau vị ấy.
Đại Phạm thiên cũng như chư Phạm thiên khác không hẳn phải là bậc Dự lưu hay đang trên đường đi đến giác ngộ mà sự tái sanh của họ tùy thuộc nhiều vào lòng tịnh tín đối với Phật, Pháp và Tăng(3). Không cần phải là đệ tử của Phật mới được sanh lên cõi Phạm thiên; có rất nhiều trường hợp ghi lại rằng các môn đệ của các ngoại đạo sư cũng được sanh lên cõi Phạm thiên nhờ theo giáo pháp của chư vị ấy, các vị ngoại đạo sư ấy được biết đến là: Sunettto, Mūgapakkha, Aranemi, Kuddālaka, Hatthipāla, Jotipāla(4). Các kinh Bổn sanh có kể lại nhiều chuyện của các ẩn sĩ hành thiền quán, đắc thiền chứng và tái sanh lên cõi Phạm thiên
Trong kinh điển Phật giáo, ghi lại cũng nhiều bài kinh với sự hiện diện của Phạm thiên, tuy nhiên, có lẽ nổi tiếng và có sức quan trọng nhất là sự thỉnh cầu Đức Thế Tôn truyền bá Giáo Pháp của Phạm thiên Sahampati. Thuở ấy, sau khi trải qua bảy tuần lễ thọ hưởng sự an lạc của giải thoát trong khu vực gần cây Đại thọ Bồ-đề, Đức Phật rời khỏi chỗ ngồi dưới cội cây Rājāyatana và lại trở về cội cây si Ajapāla. Sau khi ngồi kiết già dưới cội cây ấy trong cảnh vắng vẻ, Đức Phật đã khởi lên ý nghĩ: Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm sâu huyền diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, chỉ còn bậc thiện trí mới thấu hiểu. Chúng sanh còn luyến ái trong nhục dục ngũ trần. Nếu Như Lai truyền dạy Giáo Pháp ấy, kẻ khác ắt không thể hiểu được. Thật là phí công vô ích. Biết được ý nghĩ của đức Thế Tôn, phạm thiên Sahampati sợ rằng, nếu Đức Phật quyết định không đi truyền bá Giáo pháp, và, vì chúng sanh không nghe được pháp diệt khổ thì thế gian sẽ bị tiêu vong nên đã xuất hiện và thỉnh nguyện Đức Thế Tôn truyền bá Giáo Pháp: “Bạch đức Thế Tôn, cầu xin ngài hãy truyền dạy Giáo Pháp của Phật! Có những chúng sanh bị ít nhiều cát bụi vướng trong mắt, nếu không được nghe Giáo Pháp của Phật sẽ bị trầm luân sa đọa. Nhưng họ cũng có thể ngộ được chân lý”.
Pāturahosi magadhesu pubbe,
Dhammo asuddho samalehi cintito;
Apāpuretaṃ amatassa dvāraṃ,
Suṇantu dhammaṃ vimalenānubuddhaṃ.
Xưa tại Magadha, Hiện ra pháp bất tịnh,
Pháp do tâm cấu uế, Do suy tư tác thành.
Hãy mỡ tung mở rộng, Cánh cửa bất tử này.
Hãy để họ nghe Pháp, Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ.
Sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhito,
Yathāpi passe janataṃ samantato;
Tathūpamaṃ dhammamayaṃ sumedha,
Pāsādamāruyha samantacakkhu;
Sokāvatiṇṇaṃ janatamapetasoko,
Avekkhassu jātijarābhibhūtaṃ.
Như đứng trên tảng đá, Trên đỉnh núi tột cao
Có người đứng nhìn xuống, Ðám chúng sanh quây quần.
Cũng vậy, ôi Thiện Thệ, Bậc Biến Nhãn cùng khắp,
Leo lên ngôi lâu đài, Xây dựng bằng Chánh pháp
Bậc Thoát Ly sầu muộn, Nhìn xuống đám quần sanh,
Bị sầu khổ áp bức, Bị sanh già chi phối,
Uṭṭhehi vīra vijitasaṅgāma, Satthavāha aṇaṇa vicara loke;
Desassu bhagavā dhammaṃ, Aññātāro bhavissanti.
Ðứng lên vị Anh Hùng, Bậc Chiến Thắng chiến trường.
Vị trưởng đoàn lữ khách, Bậc Thoát Ly nợ nần.
Hãy đi khắp thế giới, Bậc Thế Tôn Chánh Giác!
Hãy thuyết vi diệu pháp, Người nghe sẽ thâm hiểu![8]
Do lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, Thế Tôn đã chấp nhận tuyên thuyết Giáo pháp bất tử đến cho chúng sanh, những người hữu duyên nên tế độ. Và đây cũng là một trong ba mươi tục lệ của chư Phật. Trước khi Đức Thế Tôn thuyết pháp đầu tiên phải có vị Đại Phạm thiên thỉnh cầu (mahābrahmuno dhammadesanatthāya āyācanaṃ).[9] Lý giải nguyên nhân: Phạm thiên là một vị tôn quý tột bậc trong quan niệm Bà-la-môn, cả về phước đức, phẩm hạnh, quyền năng và trí tuệ, là vị vua cai quản cả cõi trời và cõi người. Vua cõi trời và cõi người mà còn biết cung kính Phật, cung kính Pháp như thế thì chúng sinh sẽ nhận ra đâu là con đường chân chánh. Quan niệm của họ cho Phạm thiên là thầy của họ, nhưng nếu biết thầy của mình phải thỉnh cầu Đức Thế Tôn thuyết pháp thì chắc chắn rằng họ sẽ phải tự tìm hiểu như thế nào cho đúng
Điển hình là câu chuyện của thân mẫu ngài Sāriputta. Trước khi viên tịch Niết-bàn (niphana), Tôn giả đã trở về lại quê nhà của mình để tế độ mẫu thân. Vào đêm cuối, chư vị các vị Thiên vương, Thiên chủ, Phạm thiên lần lượt hiện xuống phòng để kính lễ Tôn giả, hào quang của các vị ấy làm cho cả căn phòng và khu vườn nơi Tôn giả Sāriputta đang ở sáng rực hào quang. Sau khi các vị Thiên chủ đã ra đi, thân mẫu vội vàng vào phòng của Tôn giả để hỏi thăm về những vị trời ấy. Tôn giả đã từ tốn giải thích đó là những vị trời nào, sự hộ pháp của họ ra sao, đã hầu hạ đức Phật trong lúc đản sanh, sự thưa thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân lúc mới thành đạo như thế nào… Nghe xong, bà vô cùng kính phục, bà không ngờ người con của mình cao cả đến độ các vị trời cao quí, ngay cả đến Đại phạm thiên, Brahma, vị trời cao cả nhất, tối thượng nhất mà cả dòng tộc bà cũng như bản thân bà luôn kính ngưỡng phụng thờ, cầu nguyện hàng trăm năm nay lại chỉ là người hầu của con mình, là đệ tử của đức Thế Tôn. Trong tâm bà phát khởi tín tâm, suy nghĩ: “Nếu oai lực của người con trai mình như thế thì oai lực vô biên của đức Thế Tôn còn to lớn biết chừng nào!” Bằng sự kính ngưỡng cao cả chưa từng có, đồng thời nghe xong bài pháp ngắn về công đức Phật, Pháp, Tăng của Tôn giả, toàn thể châu thân bà Sārī rúng động, niềm tin tối thượng về đức Phật, về người con vĩ đại của mình, cũng như về Tam Bảo. Niềm hoan hỷ, an lạc bất tận phát sinh đến từng chân tơ kẻ tóc, bà đã chứng đắc được quả vị Tu-đà-hoàn, chính thức bước vào dòng Thánh, chắc chắn sẽ đạt đến giải thoát, an lạc trong tối đa 7 kiếp sắp tới.