18/10/2024
醫宗金鑑
Y Tông Kim Giám
辨太陽病脈證並治上篇
Biện Thái Dương Bệnh Mạch Chứng Tính Trị Thượng Thiên (P2)
太陽病,發熱,汗出,惡風,脈緩者,名為中風。
Thái dương bệnh, phát nhiệt, hãn xuất, ố phong, mạch hoãn giả, danh vi trúng phong.
Dịch: Thái Dương bệnh, phát sốt, ra mồ hôi, sợ gió, mạch hoãn, gọi là trúng phong.
【註】太陽病,即首條脈浮,頭項強痛而惡寒之謂也。衛為表陽,風属陽邪,風邪中人,則衛受之,從其類也。風中於衛即發熱者,以風、衛,皆陽,其性本熱,故變熱甚捷,不似傷寒待其閉鬱而始熱也。衛病不能固表,又為陽邪所蒸,故腠理疎而汗出也。汗出表虛,為風所忤,故惡風也。風性柔軟,故脈緩也。此承上條言太陽病又兼見此脈證者,名曰中風,以為中風病之提綱。後凡稱中風者,皆指此脈證而言也。
[Chú] Thái Dương bệnh, tức thủ điều mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn chi vị dã. Vệ vi biểu dương, phong thuộc dương tà, phong tà trúng nhân, tắc vệ thọ chi, tòng kỳ loại dã. Phong trúng ư vệ tức phát nhiệt giả, dĩ phong, vệ, giai dương, kỳ tính bản nhiệt, cố biến nhiệt thậm tiệp, bất tựa thương hàn đãi kỳ bế uất nhi khởi nhiệt dã. Vệ bệnh bất năng cố biểu, hựu vi dương tà sở chưng, cố tấu lý sơ nhi hãn xuất dã. Hãn xuất biểu hư, vi phong sở ngỗ, cố ố phong dã. Phong tính nhu nhuyễn, cố mạch hoãn dã. Thử thừa thượng điều ngôn thái dương bệnh hựu kiêm kiến thử mạch chứng giả, danh viết trúng phong, dĩ vi trúng phong bệnh chi đề cương. Hậu phàm xưng trúng phong giả, giai chỉ thử mạch chứng nhi ngôn dã.
Dịch:
[Chú] Thái dương bệnh, là bảo điều đầu tiên: mạch phù, đầu gáy cứng đau mà sợ lạnh. Vệ là biểu dương, phong thuộc dương tà, phong tà trúng vào người, thì vệ thọ trước, theo loại của nó vậy. Phong trúng ở vệ liền phát nhiệt, vì phong, vệ đều là dương, tính của chúng vốn nhiệt, cho nên chuyển thành nhiệt rất nhanh, không giống thương hàn dừng lại gây tắc uất rồi mới bắt đầu nhiệt. Vệ bệnh không thể cố biểu, lại vì dương tà chưng bốc, cho nên tấu lý thưa hở mà mồ hôi ra vậy. Mồ hôi ra biểu hư, bị phong ngang ngược, cho nên sợ gió. Tính của phong nhu nhuyễn, cho nên mạch hoãn vậy. Chỗ này kế thừa những lời của điều trên Thái Dương bệnh lại kiêm mạch chứng thấy ở đây, gọi là trúng phong, cho rằng là đề cương của Trúng Phong bệnh. Sau phàm xưng Trúng Phong, đều chỉ mạch chứng này mà nói vậy.
【集注】方有執曰:脈緩即下文陽浮而陰弱之謂,言既有如首條所揭之太陽病,加之發熱,汗出,惡風而脈緩者,則其病乃是觸犯於風所致,故名中風。
汪琥曰:中風,非東垣所云中府、中藏、中血脈之謂。蓋中字與傷字同義。仲景論中,不直言傷風者,恐後學不察,以咳嗽、鼻塞、聲重之傷風,混同立論,故以中字別之也。脈緩當作浮緩看,浮是太陽病脈,緩是中風脈。中篇緊脈,亦當倣此。
[Tập chú] Phương Hữu Chấp viết: mạch hoãn tức hạ văn dương phù nhi âm nhược chi vị, ngôn ký hữu như thủ điều sở yết chi Thái Dương Bệnh, gia chi phát nhiệt, hãn xuất, ố phong nhi mạch phù giả, tắc kỳ bệnh nãi thị xúc phạm ư phong sở trí, cố danh trúng phong.
Uông hổ viết: trúng phong, phi Đông Viên sở vân trúng phủ, trúng tạng, trúng huyết mạch chi vị. Cái trúng tự dữ thương tự đồng nghĩa. Trọng cảnh luận trúng, bất trực ngôn thương phong giả, khủng hậu học bất xát, dĩ khái thấu, tỵ tắc, thanh trọng chi thương phong, hỗn đồng lập luận, cố dĩ trúng tự biệt chi dã. Mạch hoãn đương tác phù hoãn khán, phù thị thái dương bệnh mạch, hoãn thị trúng phong mạch. Trung thiên khẩn mạch, diệc đương phỏng thử.
Dịch:
[Tập chú] Phương Hữu Chấp nói: mạch hoãn tức điều văn dưới bảo rằng dương mạch phù mà âm mạch nhược, toàn bộ lời văn giống như Thái Dương bệnh đã tiết lộ ở điều đầu tiên, thêm vào đó phát nhiệt, ra mồ hôi, sợ gió mà mạch hoãn, thì bệnh là bởi phong xúc phạm mà đưa đến, cho nên gọi là trúng phong.
Uông Hổ nói: Trúng phong, không như Đông Viên nói rằng trúng phủ, trúng tạng, trúng huyết mạch. Đại khái từ “trúng” với từ “thương” đồng nghĩa. Trọng Cảnh luận “trúng”, không nói thẳng “thương phong”, sợ hậu học không xét kỹ, vì các chứng ho, tắc mũi, nặng tiếng của “thương phong” sẽ bị lập luận lẫn lộn, cho nên dùng chữ “trúng” để phân biệt vậy. Mạch hoãn cần xem là mạch phù hoãn, phù là mạch Thái Dương bệnh, hoãn là mạch trúng phong. Thiên trung mạch khẩn, cũng nên phỏng theo đó.
太陽中風,陽浮而陰弱,陽浮者熱自發,陰弱者汗自出,嗇嗇惡寒,淅淅惡風,翕翕發熱,鼻鳴,乾嘔者,桂枝湯主之。
Thái dương trúng phong, dương phù nhi âm nhược, dương phù giả nhiệt tự phát, âm nhược giả hãn tự xuất, sắc sắc ố hàn, tích tích ố phong, hấp hấp phát nhiệt, tỵ minh, can ẩu giả, quế chi thang chủ chi.
Dịch:
Thái Dương trúng phong, dương phù mà âm nhược, dương phù thì nhiệt tự phát, âm nhược thì hãn tự ra, gây gây sợ lạnh, rờn rợn ghét gió, hấp hấp phát nhiệt, mũi kêu, nôn khan, quế chi thang làm chủ.
【註】太陽中風,即上二條合而言之,又詳舉其證以出其治也。後凡稱太陽中風者,皆指此脈此證也。陰陽指榮衛而言,非指尺寸浮沈也。陽浮,即越人曰:三菽之浮,肺之浮也。肺主皮毛,取之而得者,即衛分之浮也。六菽之浮,心之浮也。心主血脈,取之而得者,即榮分之浮也。榮分之浮較之衛分之浮,則無力而弱,故曰:陽浮而陰弱也。衛為風客,則衛邪強而發熱矣。故曰:陽浮者熱自發。榮受邪蒸,則榮不固而汗出矣。故曰:陰弱者汗自出。榮衛不和,則肌表疎緩,故有嗇嗇之惡寒,淅淅之惡風,翕翕之發熱也。然在皮膚之表,非若傷寒之壯熱無汗,惡寒雖近烈火而不減,惡風雖處密室而仍畏也。皮毛內合於肺,皮毛不固,風邪侵肺,則氣壅而鼻鳴矣。胸中者,陽氣之本。衛陽為風邪所干,不能敷布,則氣上逆而為乾嘔矣。故宜桂枝湯,解肌固表,調和榮衛也。
[Chú] Thái dương trúng phong, tức thượng nhị điều hợp nhi ngôn chi, hựu tường dữ kỳ chứng dĩ xuất kỳ trị dã. Hậu phàm xưng thái dương trúng phong giả, giai chỉ thử mạch thử chứng dã. Âm dương chỉ vinh vệ nhi ngôn, phi chỉ xích thốn phù trầm dã. Dương phù, tức Việt Nhân viết: tam thục chi phù, phế chi phù dã. Phế chủ bì mao, thủ chi nhi đắc giả, tức vệ phần chi phù dã. Lục thục chi phù, tâm chi phù dã. Tâm chủ huyết mạch, thủ chi nhi đắc giả, tức vinh phần chi phù dã. Vinh phần chi phù giảo chi vệ phần chi phù, tắc vô lực nhi nhược, cố viết: dương phù nhi âm nhược dã. Vệ vi phong khách, tắc vệ tà cường nhi phát nhiệt hỹ. Cố viêt: dương phù giả nhiệt tự phát. Vinh thọ tà chưng, tắc vinh bất cố nhi hãn xuất hỹ. Cố viết: âm nhược giả hãn tự xuất. Vinh vệ bất hoà, tắc cơ biểu sơ hoãn, cố hữu sắc sắc chi ố hàn, tích tích chi ố phong, hấp hấp chi phát nhiệt dã. Nhiên tại bì phu chi biểu, phi nhược thương hàn chi tráng nhiệt vô hãn, ố hàn tuy cận liệt hoả nhi bất giảm, ố phong tuy xứ mật thất nhi nhưng uý dã. Bì mao nôi hợp ư phế, bì mao bất cố, phong tà xâm phế, tắc khí tắc nhi tỵ minh hỹ. Hung trung giả, dương khí chi bản. Vệ dương vi phong tà sở can, bất năng phu bố, tắc khí thượng nghịch nhi vi can ẩu hỹ. Cố nghi Quế Chi Thang, giải cơ cố biểu, điều hoà vinh vệ dã.
Dịch:
[Chú] Thái Dương trúng phong, tức là hợp hai điều ở trên mà nói, lại tỉ mỉ nêu lên triệu chứng để đưa ra cách trị. Sau phàm xưng Thái Dương Trúng Phong, đều chỉ mạch đó chứng đó vậy. Âm dương là chỉ vinh vệ mà nói, không phải chỉ xích, thốn, phù, trầm. Dương phù, tức Việt Nhân nói: phù của ba hạt đậu, là phù của phế. Phế chủ bì mao, bắt được mạch này, tức là phù của vệ phần. Phù của sáu hạt đậu, là phù của tâm. Tâm chủ huyết mạch, bắt được mạch này, tức là phù của vinh phần. Phù của vinh phần sao với phù của vệ phần, thì vô lực và nhược, cho nên nói: dương phù mà âm nhược. Vệ bị phong khách ở đó, thì vệ tà mạnh mà phát nhiệt. Cho nên nói: dương phù thì nhiệt tự phát. Vinh thọ tà chưng đốt, thì vinh bất cố mà mồ hôi ra. Cho nên nói: âm nhược thì hãn tự ra. Vinh vệ bất hoà, thì cơ biểu thưa rão, cho nên có chứng gây gây sợ lạnh, rờn rơn ghét gió, hấp hấp phát nhiệt. Nhiệt ở bì phu của biểu, không như Thương Hàn nhiệt mạnh mà không có mồ hôi, sợ lạnh tuy ở gần ngọn lửa mà không giảm, sợ gió tuy ở nơi phòng kín mà vẫn sợ. Bì mao bên trong hợp với phế, bì mao bất cố, phong tà xâm nhập phế, làm khí tắc nghẽn mà mũi kêu. Phế trung, là gốc của dương khí. Vệ dương bị phong tà quấy nhiễu, không thể phân tán ra ngoài, thì khí nghịch lên mà gây ra nôn khan. Bởi vậy nên dùng quế chi thang, giải cơ cố biểu, điều hoà vinh vệ.
【集註】程應旄曰:嗇嗇惡寒者,肌被寒侵,怯而斂也。淅淅惡風者,肌因風灑,疎難禦也。
翕翕發熱者,肌得熱蒸,合欲揚也。嗇嗇、淅淅、翕翕字俱從皮毛上形容,較之傷寒之見證,自有浮、沉、淺、深之別。
[Tập chú] Trình Ứng Mạo viết: sắc sắc ố hàn giả, cơ bị hàn xâm, khiếp nhi liễm dã. Tích tích ố phong giả, cơ nhân phong sái, sơ nan ngự dã. Hấp hấp phát nhiệt giả, cơ đắc nhiệt chưng, hợp dục dương dã. Sắc sắc, tích tích, hấp hấp tự câu tòng bì mao thượng hình dung, giảo chi thương hàn chi kiến chứng, tự hữu phù, trầm, thiển, thâm chi biệt.
Dịch:
[Tập Chú] Trình Ứng Mạo nói: gây gây sợ lạnh, là hàn xâm phạm da cơ, khiếp mà thu lại. Rờn rợn sợ gió, bởi phong phân tán ở cơ, thưa hở khó chế ngự được. Hấp hấp phát nhiệt, cơ gặp nhiệt chưng đốt, muốn đưa lên. Từ gây gây, rờn rợn, hấp hấp đều mô tả theo từ da lông hướng lên, so với chứng thấy của Thương Hàn, tự có phù, trầm, nông sâu khác nhau.