30/11/2025
SỰ HOẠI DIỆT CỦA KIẾP (KAPPA)
I. Vào cuối một chu kỳ, thế giới có thể bị hủy diệt bởi lửa, nước hoặc gió. Sự hủy diệt bởi lửa là loại phổ biến nhất, và kiếp (kappa) mà chúng ta đang sống hiện nay sẽ kết thúc theo cách này. Các nguồn tài liệu chú ý nhiều nhất đến loại kết thúc này và chúng ta sẽ theo sự dẫn dắt đó bằng cách mô tả sự hủy diệt bởi lửa một cách chi tiết trước tiên.¹⁶⁶
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy thế giới sắp đi đến hồi kết là sự xuất hiện của một đám mây lớn, Đại Vân Hủy Diệt Kiếp (kappavinaˉsakamahaˉmegho), trải rộng trên một ngàn tỷ (koṭisatasahassa) chuyển thế giới (cakkavaˉḷa).¹⁶⁷ Tiếp theo đó là một trận mưa lớn làm vui lòng những người đang hăng hái gieo trồng mùa màng, nhưng khi mưa tạnh, nó tạnh hẳn mãi mãi. Theo sau là một trận hạn hán kéo dài trong nhiều trăm ngàn năm.
Một trăm ngàn năm trước sự kết thúc cuối cùng, một số vị Phạm thiên (brahmaˉ) nhìn thấy các dấu hiệu và cảnh báo cho chư thiên cõi Dục giới. Một số trong những vị này lại đảm nhận vai trò của các “Tổng trấn thế gian” (lokabyuˉha) và hạ xuống trái đất để cảnh báo những người ở cõi nhân loại (Vism-mhṭ 13). Những vị chư thiên dục giới này, xõa búi tóc,¹⁶⁸ đầu tóc rối bù, với khuôn mặt sầu thảm, lấy tay lau nước mắt, mặc y phục nhuộm màu xộc xệch,¹⁶⁹ đi khắp cõi nhân loại và đưa ra thông báo này:
“Trong một trăm ngàn năm nữa, sự kết thúc của kiếp (kappuṭṭhaˉna) sẽ đến. Thế giới này sẽ diệt vong. Đại dương sẽ khô cạn và quả đất lớn này cùng với núi Tu-di (Sineru) sẽ bị thiêu rụi và hủy diệt. Thế giới sẽ bị hủy diệt cho đến tận Phạm thiên giới (brahmaloka). Hãy phát triển tâm từ, này các người thân, hãy phát triển tâm bi, hãy phát triển tâm hỷ, hãy phát triển tâm xả, này các người thân. Hãy tôn kính mẹ, tôn kính cha và kính trọng các bậc trưởng thượng trong gia tộc. Hãy tỉnh thức, chớ có buông lung.”
Họ đi khắp các nẻo đường của loài người, đưa ra thông báo này. Đây là sự náo động lớn vào cuối một kiếp.¹⁷⁰
Một trăm ngàn năm có vẻ như là một khoảng thời gian dài phía trước để một thông báo như vậy gây ra nhiều lo ngại, nhưng cần nhớ rằng, theo hệ thống A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakosˊa), những con người sống gần cuối tiểu kiếp (antarakappa) cuối cùng này sẽ có tuổi thọ được đo bằng hàng chục ngàn năm. Lời khuyên răn cho mọi người là phát triển bốn phạm trú (brahmavihaˉra), những thiền định mà khi hoàn thiện sẽ đảm bảo sự tái sanh vào Phạm thiên giới. Điều này sẽ là cần thiết, bởi vì tất cả các cõi của Dục giới sẽ sớm bị hủy diệt. Sẽ không còn nơi nào cho những chúng sanh này tái sanh ngoại trừ các tầng trên của Sắc giới (ruˉpaloka).
Các chúng sanh đều chết dần trong trận đại hạn hán. Sự trống rỗng lớn này bắt đầu từ dưới lên và địa ngục thấp nhất, A-tỳ (Aˉvici), là nơi đầu tiên trở nên trống rỗng.¹⁷¹ Không còn chúng sanh nào tái sanh vào đó nữa vì những người ở cõi nhân loại phát triển tâm tràn đầy từ ái (mettaˉ), được thúc đẩy bởi sự cảm kích (saṃvega). Ngay cả các loài động vật cũng phát triển tâm từ đối với con cái và anh chị em của chúng và tái sanh làm người hoặc chư thiên (AN-a 7:66). Sự di cư của các chúng sanh dần dần đi lên khi các cõi trở nên trống rỗng và hầu hết cuối cùng được tái sanh vào cõi Quang Âm (Aˉbhassara), cõi của các Phạm thiên nhị thiền, là cõi thấp nhất còn tồn tại sau khi ngọn lửa thiêu rụi mọi thứ bên dưới.
Các nguồn tài liệu nhận thức được những vấn đề lý thuyết do quá trình này đặt ra. Ngài Buddhaghosa (Phật Âm), trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), nói: “Không có sự tái sanh vào Phạm thiên giới nếu không có thiền định (jhaˉna), vậy làm thế nào những người đó, bị ám ảnh bởi sự khan hiếm thức ăn, xoay xở để được tái sanh vào đó?” Câu trả lời là bằng cách thực hành giới hạnh và phát triển tâm từ, ít nhất họ có thể tái sanh vào một trong các cõi trời Dục giới (saggas), và ở đó chứng đắc thiền định trước khi những thế giới đó cũng bị hủy diệt. Những người khác được tái sanh lên cao đơn giản nhờ sức mạnh của nghiệp (kamma) đã tạo trong các kiếp trước, bởi vì trong quy mô thời gian rộng lớn của luân hồi, không thể có chuyện một chúng sanh lại không có một nghiệp thù thắng nào đó (Vism 13: 33–35). Rốt cuộc, các chúng sanh sống trong tất cả các cõi này phải được tái sanh ở đâu đó: “Có lúc quả đất lớn này cháy rụi, nhưng không có sự kết thúc khổ đau cho những chúng sanh trôi lăn bị trói buộc bởi vô minh và tham ái” (SN 22:99).
A-tỳ-đạt-ma Câu-xá cũng thảo luận vấn đề này và cũng gợi ý rằng những chúng sanh không thể chứng đắc thiền định ban đầu được tái sanh vào một trong các cõi trời Dục giới, và chứng đắc thiền định ở đó. Văn bản đó bao gồm tất cả cư dân loài người của châu Bắc-curu (Uttarakuru) vào nhóm này, “bởi vì họ không thể rời khỏi Dục giới (kaˉmadhaˉtu).” A-tỳ-đạt-ma Câu-xá cũng gợi ý rằng một số chúng sanh trong địa ngục không thoát được mà tái sanh vào cõi địa ngục của một chuyển thế giới (cakkavaˉḷa) nào đó nằm ngoài phạm vi hủy diệt (AK 3:6. tr.476). Quan điểm này cũng được các phụ chú giải Pāli ủng hộ.¹⁷²
Trong quá trình diệt vong này, không có chúng sanh nào tái sanh vào các tầng thấp hơn của chuyển thế giới. Trước khi ngọn lửa lớn bắt đầu, không còn ai sống sót dưới mức cõi Quang Âm (Aˉbhassara). A-tỳ-đạt-ma Câu-xá nói quá trình này mất mười chín tiểu kiếp (antarakappa) để hoàn thành, chừa lại một tiểu kiếp cho quá trình hủy diệt vật lý (AK 3:6. tr. 479).
Sơ đồ minh họa quá trình 7 mặt trời hủy diệt thế giới
Sau khi tất cả chúng sanh đã chết và được tái sanh vào các Phạm thiên giới, quá trình hủy diệt vật lý của nhiều hệ thống thế giới bắt đầu với sự xuất hiện trên bầu trời của mặt trời thứ hai, Mặt Trời Hủy Diệt Kiếp (kappavinaˉsakasuˉriya). Mặt trời này mọc khi mặt trời ban đầu lặn và ngược lại, do đó toàn thế giới luôn ở trong ánh sáng ban ngày. Mặt trời này không giống như mặt trời ban đầu ở chỗ nó không phải là nơi ở của bất kỳ vị thiên nào mà là một hiện tượng vật lý thuần túy. Bầu trời bây giờ hoàn toàn quang đãng, không mây mù, và sức nóng của hai mặt trời làm khô cạn tất cả các dòng suối và con sông nhỏ trên thế giới, chỉ trừ năm con sông lớn: Hằng Hà (Gan˙gaˉ), Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, và Mahī.
Tiếp theo đó, sau một khoảng thời gian dài, là sự xuất hiện của mặt trời thứ ba. Bây giờ khi một mặt trời mọc, một mặt trời ở thiên đỉnh và mặt trời kia đang lặn. Mặt trời mới, cộng thêm vào những cái khác, làm khô cạn năm con sông lớn.
Sau một khoảng thời gian dài khác, một mặt trời thứ tư xuất hiện và bây giờ các hồ lớn của Hy-mã-lạp (Himavā) khô cạn: Hồ Anotattā, Sīhapapātā, Rathakārā, Kaṇṇamuṇḍā, Kuṇālā, Chaddantā, và Mandākiniyā.
Mặt trời thứ năm dần dần làm bốc hơi nước của các đại dương cho đến khi chỉ còn lại những vũng nước nông, giống như “dấu chân gia súc.”
Với mặt trời thứ sáu, quả đất lớn cùng với Núi Tu-di, vua của các ngọn núi, bắt đầu “bốc khói, cháy âm ỉ và tỏa khói” (dhuˉmaˉyantisaṃdhuˉmaˉyantisampadhuˉmaˉyanti). Toàn bộ thế giới tràn ngập những làn khói dầu cuộn xoáy (AN 7:66).
Sau một khoảng thời gian dài nữa, mặt trời thứ bảy và cuối cùng xuất hiện và bây giờ mọi thứ bùng cháy thành ngọn lửa. Núi Tu-di và toàn bộ chuyển thế giới bị lửa thiêu rụi và gió mang ngọn lửa lên cao thiêu rụi tất cả các cõi trời Dục giới và thậm chí cả thế giới của các Phạm thiên sơ thiền. Ngọn lửa dữ dội đến mức không để lại tro tàn; mọi thứ bị thiêu rụi, ngọn lửa không tắt cho đến khi ngay cả những hạt nhỏ nhất (aṇumattasan˙khaˉra) cũng bị tiêu hủy.¹⁷³ Bây giờ chúng ta đã trở lại với vũ trụ trống rỗng, “một bóng tối u ám vĩ đại.”
Các văn bản Pāli im lặng về việc sáu mặt trời bổ sung phát sinh như thế nào và từ đâu. A-tỳ-đạt-ma Câu-xá nói rằng chúng phát sinh do nghiệp chung (collectivekamma) của các chúng sanh đã từng cư trú trên thế giới, và chỉ có thể làm như vậy sau khi thế giới đã trống rỗng chúng sanh. Ngọn gió thổi bùng ngọn lửa là một “ngọn gió của Sắc giới” (ruˉpadhaˉtu), tức là Phạm thiên giới (AK 3:6. tr.491). Trong một chú thích của Poussin, ông trích dẫn Tỳ-bà-sa (Vibhaˉṣaˉ) (một văn bản Phạn ngữ) đề cập đến bốn giả thuyết về các mặt trời; rằng trong suốt sự tồn tại của thế giới, các mặt trời thừa vẫn ẩn sau núi Yugandhara, rằng mặt trời ban đầu chia thành bảy, rằng một mặt trời đơn giản là tăng lực lượng lên gấp bảy lần hoặc các mặt trời thừa tồn tại ở dạng ẩn cho đến khi nghiệp của chúng sanh khiến chúng biểu hiện trên bình diện vật lý (AK tr. 542, chú thích 497). Khả năng thứ ba, rằng một mặt trời duy nhất gia tăng sức mạnh, không khác mấy so với quan điểm khoa học hiện đại về cách hệ mặt trời này sẽ kết thúc, với việc mặt trời trở thành một ngôi sao khổng lồ đỏ khổng lồ và nuốt chửng các hành tinh bên trong.
Tác phẩm Thái Lan thời trung cổ Traibhūmikathā, “Ba Thế Giới”, thêm một chi tiết đầy màu sắc. Theo nguồn đó, chính cơ thể đầy dầu của những con quái vật biển khổng lồ sống trong đại dương Sīdantara khi bắt lửa đã cung cấp nhiên liệu cho trận đại hỏa hoạn thiêu rụi Núi Tu-di và các dãy núi lớn khác.¹⁷⁴
Đức Phật đã thuyết Kinh Bảy Mặt Trời (SattasuˉriyaSutta) với mục đích giáo huấn cụ thể; Ngài muốn làm rõ cho người nghe về sự vô thường của mọi hiện tượng. Đối với những người nghe Ấn Độ cổ đại, không có gì trên thế giới có vẻ thường hằng và ổn định như Núi Tu-di và đại dương. Tuy nhiên, thời điểm sẽ đến khi ngay cả đại dương bao la không thể tưởng tượng nổi cũng sẽ khô cạn đến mức không còn đủ nước để làm ướt một đốt ngón tay. Và Núi Tu-di, “vua của các ngọn núi” to lớn và hùng mạnh cũng sẽ cháy rụi hoàn toàn đến mức không còn tro tàn. Xuyên suốt bài kinh là điệp khúc lặp đi lặp lại:
“Vô thường, này các Tỳ-khưu, là các hành. Không ổn định, không an toàn là các hành. Thật vừa đủ để chán nản với tất cả các hành, để ly tham đối với chúng, để giải thoát khỏi chúng.” (AN 7: 66)
Các bài kinh trong Tạng chỉ đề cập đến sự hủy diệt bởi lửa này. Các chú giải thêm hai khả năng kết thúc khác của một kiếp; hủy diệt bởi nước và hủy diệt bởi gió (Ví dụ: AN-a 4:156). Tuy nhiên, mầm mống của ý tưởng này được tìm thấy trong Trung Bộ Kinh 28, Kinh Đại Tượng Dấu (MahaˉhatthipadopamaSutta). Trong một phần của bài kinh đó, Đức Phật thảo luận về bốn đại và nhấn mạnh bản chất vô thường và không đáng tin cậy của chúng, Ngài nói rằng cả các yếu tố bên trong cơ thể và các yếu tố bên ngoài thế giới đều có thể bị xáo trộn. Ngài nói sẽ có lúc yếu tố nước bên ngoài bị xáo trộn và yếu tố đất sẽ không còn tồn tại. Chú giải liên hệ rõ ràng điều này với aˉposaṃvaṭṭakaˉla, sự kết thúc kiếp bởi nước. Sự xáo trộn của yếu tố gió biểu hiện trong sự tĩnh lặng chết chóc hoặc những cơn gió hủy diệt dữ dội và chú giải liên kết cái sau với vaˉyosaṃvaṭṭakaˉla, sự kết thúc kiếp bởi khí (hoặc gió).
Việc Đức Phật không có ý định đề cập đến sự tận thế trong bài kinh này được làm rõ trong mô tả của Ngài về sự xáo trộn của yếu tố lửa bên ngoài. Ngài nói rằng có lúc những ngọn lửa lớn thiêu rụi toàn bộ thành phố và thị trấn và quét qua các vùng nông thôn cho đến khi chúng gặp nước, núi hoặc các chướng ngại vật khác. Chú giải phải thừa nhận điều này không đề cập đến tejosaṃvaṭṭakaˉla, sự kết thúc kiếp bởi lửa vì ngọn lửa đó thiêu rụi mọi thứ và không để lại tro tàn.¹⁷⁵
II. Sự hủy diệt bởi nước bắt đầu với sự xuất hiện của một đám mây lớn kết thúc kiếp (kappavinaˉsaka−mahaˉmegha). Mưa bắt đầu rơi từ đám mây này, ban đầu nhẹ nhàng nhưng dần dần tăng lên thành một trận đại hồng thủy dữ dội. Nước mưa này không phải là nước thường mà là nước ăn mòn (khaˉrudaka) có tính ăn mòn cao. Cần nhớ lại rằng đây là cùng loại nước mà trên đó toàn bộ chuyển thế giới trôi nổi. Khi nước ăn mòn này trút xuống các thế giới, nó hòa tan mọi thứ cho đến những hạt vật chất nhỏ nhất. Nước được giữ lại như trong một cái bình bởi những cơn gió mạnh mẽ và dâng cao đến tận cõi Phạm thiên Quang Âm (Aˉbhassara, cõi nhị thiền) cũng bị hòa tan. Cõi thấp nhất thoát khỏi sự hủy diệt lần này là cõi Biến Tịnh (Subhakiṇha) của các Phạm thiên tam thiền. Nước chỉ rút đi sau khi mọi thứ trong tất cả các thế giới này đã bị hủy diệt hoàn toàn.
III. Sự hủy diệt bởi yếu tố gió bắt đầu với một ngọn gió kết thúc kiếp (kappavinaˉsanatthaṃvaˉta) ban đầu nhẹ nhàng, thổi tung bụi mịn. Nó dần dần tăng sức mạnh và sự dữ dội cho đến khi nhấc bổng những tảng đá khổng lồ và ném chúng đi. Trong giai đoạn dữ dội cuối cùng của trận gió lớn, các Núi Tu-di của nhiều hệ thống thế giới bị ném qua không gian, va đập vào nhau vỡ tan tành. Lần này mọi thứ bị hủy diệt lên đến và bao gồm cả cõi Biến Tịnh (Subhakiṇha) và cõi của các Phạm thiên tứ thiền là cõi duy nhất thoát khỏi sự hủy diệt (Vism 13: 56 t).
Ba phương thức hủy diệt thế giới tuân theo một mô hình cố định. Có bảy đại kiếp (mahaˉkappa) kết thúc bằng lửa, theo sau là một đại kiếp kết thúc bằng nước. Mô hình tám đại kiếp này được lặp lại bảy lần và sau đó là một loạt bảy lần hủy diệt bằng lửa nữa, theo sau là một lần hủy diệt bằng gió. Như vậy, toàn bộ chu kỳ kéo dài sáu mươi bốn đại kiếp, điều này không phải ngẫu nhiên, chính là tuổi thọ của một Phạm thiên cõi Biến Tịnh (Vism 13: 65).
Chú thích:
166. Các nguồn Pāli chính là AN 7: 66 Kinh Bảy Mặt Trời và Vism 13.28t., trong đó đưa lịch sử vũ trụ này vào phần về năng lực nhớ lại kiếp trước, nhằm làm rõ cụm từ “Vị ấy nhớ lại nhiều kiếp thế giới hoại và nhiều kiếp thế giới thành.”
167. Vism 13.32, đám mây này không được đề cập trong bản tường thuật của Tăng Chi Bộ.
168. Muttasirā. Bản dịch theo gợi ý của Vism-mhṭ 13.
169. Virūpavesadhārino. Vism-mhṭ 13 quy sự xuất hiện nhếch nhác của họ cho nỗi buồn và sợ hãi do sự tận thế sắp tới gây ra.
170. Sn-a 2:4. Xem thêm Vism 13.34. AN-a 7:66 có một phiên bản hơi khác, chư thiên ở đó bay trên trời và cảnh báo chúng sanh rằng “không có gì thường hằng ở đây, hãy phát triển tâm từ v.v.”
171. Điều này được coi là có vấn đề và Buddhaghosa thêm rằng “một số người nói” rằng chúng sanh ở A-tỳ địa ngục không chết cho đến gần cuối, với sự xuất hiện của mặt trời thứ bảy.
172. DN-ṭ 1. Xem Bodhi, AENV tr. 153.
173. Tất cả các mô tả này được lấy từ AN 7:66 và Vism 13.41.
174. Reynolds, Three Worlds According to King Ruang (Ba Thế Giới Theo Vua Ruang), tr. 309-310.
175. Phần này thảo luận về quan điểm của các bộ phái và chú giải về các loại hủy diệt khác ngoài lửa.
PUNNADHAMMO MAHĀTHERO
THE BUDDHIST COSMOS:
A Comprehensive Survey of the Early Buddhist Worldview, according to Theravāda and Sarvāstivāda sources