Thực hành Thiền Vipassana

Thực hành Thiền Vipassana - Chia sẻ lời Đức Phật dạy trong Tam tạng Kinh - Luật - Luận. Và Pháp Hành Vipassana
(1)

LÀM GÌ THÌ LÀM - PHẢI TRÁNH NGHIỆP BỎN XẺN.Hôm nay chúng ta làm người, chúng ta không biết gì hết...
05/12/2025

LÀM GÌ THÌ LÀM - PHẢI TRÁNH NGHIỆP BỎN XẺN.

Hôm nay chúng ta làm người, chúng ta không biết gì hết, không có thần thông, chỉ có chút ít tiền bạc sung sướng hưởng thụ,...

Không gì kinh hoàng bằng mai này khi tắt hơi rồi thì không biết đi đâu...

Trong "Phiêu Phong" tôi có tả, tả theo trong kinh chớ không phải theo tưởng tượng của tôi, người tạo Ác Nghiệp nhiều, đến lúc chết họ có cảm giác giống như tỉnh dậy từ giấc chiêm bao.

▪︎Nếu sanh địa ngục họ nghe nóng, nghe đau đớn cả người, mê sảng la hét không ai nghe, nhìn quanh thấy máu mủ tanh hôi, tiếng người la hét rượt đâm nhau trước mặt mình.

▪︎Sanh về bàng sanh thì mù mịt.

▪︎Sanh về cõi trời thì nghe tiếng nhạc du dương, mùi thơm ngát, mát lạnh, lâu đài vàng ngọc bồng bềnh trôi trong không gian, ánh sáng mờ ảo, người đẹp giai nhân dập dìu.

Sợ nhất một ngày nào đó thức dậy thấy mình ở địa ngục, hoặc thấy khát nước, đói...

Giờ mình đói còn chạy đi lấy gói mì, chớ loài đó thì chịu chết thôi, khi đã biết mình bắt đầu đói là thua rồi.

>> Vì vậy phải nhớ, Nghiệp gì thì Nghiệp phải tránh Nghiệp bỏn xẻn, trong lúc mình còn có thể chia sẻ được thì nên chia sẻ.

- Angulimala khi đi xuất gia bị chửi đánh đủ điều nhưng lúc nào cũng đầy đủ đồ ăn ngon, sở dĩ được như vậy vì đời xưa Ngài từng là Tỳ Kheo, mỗi bữa trưa xong còn dư Ngài kiếm chỗ nào khô ráo sạch sẽ Ngài đổ ra với thiện ý con gì ăn được thì ăn.

Ở đây có người hỏi trên trời có lập gia đình không?

Trên trời không có lập gia đình, nhưng nếu những cô thiên nữ đó thuộc về mình thì họ sẽ xuất hiện trong lâu đài của mình. Họ xuất hiện ở đâu thì thuộc về quyền của người ở đó.

- Theo kinh điển Nam Tông mô tả thì cõi Trời hơn cõi Tây Phương Cực Lạc nhiều lắm, hơn cả thiên đàng của Hồi Giáo, của Thiên Chúa giáo nhiều lắm, có điều là Phật tử VN xui không chịu đọc những điều đó.

▪︎ Ví dụ trên cõi Tịnh Cư của Nam Tông chỉ toàn Thánh, không có vụ Thánh phàm Đồng cư.

▪︎ Cõi Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất thì Thánh Nhân đầy trên đó, vì mỗi lần có vị Phật ra đời thì số Chư Thiên đắc Quả đông lắm, trên đó giờ Thánh Nhân đầy ắp.

Muốn học Tam Tạng hay thắc mắc kinh điển gì thì Pháp Sư Tam Tạng đầy trên đó.

Ngay bây giờ nếu mình muốn thấy hình ảnh Đức Phật thì không khó, trên đó có vô số vị Trời đã nhìn thấy Ngài, chỉ cần xin họ cho mình nhìn thấy được hình dáng Thế Tôn thì trong vòng ba nốt nhạc mình đã nhìn thấy. Người ta có thể hóa hiện cho mình thấy.

Biết được điều đó thì thấy đời Tu có nhiều điểm hy vọng cũng vui, còn cứ lờ mờ không đọc Kinh sách thì cũng chán lắm.

Tôi có viết bài Phiêu Phong (Chuyện phiếm Thầy tu) không biết bà con có biết không.

Cái tựa sách, tựa bài khi tôi viết tôi không giải thích, nhưng nếu ai hiểu thì biết ẩn ý của tôi.

Phiêu Phong là một trong những bài tôi rất tâm đắc, bởi vì tôi dùng kiến giải của Giáo Lý Nguyên Thủy để nói về cảnh giới tái sanh bằng cách nói của người thời nay.

Đừng xem bài viết đó là truyện ngắn giải trí mà thật ra là tôi diễn tả về loài này.
Phiêu Phong nghĩa là theo gió mà đi, rất đói khổ.

▪︎ Sư Giác Nguyên giảng.
▪︎ ToạiKhanh(.)com.

Namo Buddhassa 🙏🏻
Namo Dhammassa 🙏🏻
Namo Sanghassa 🙏🏻

________________🍀

Idaṃ me puññaṃ āsavakkhayā’vahaṃ hotu.
Phước lành này của chúng con, nguyện đoạn trừ các lậu hoặc - trầm luân.

Idaṃ me puññaṃ nibbānassa paccayo hotu.
Phước lành này của chúng con, nguyện là duyên thành tựu Niết bàn.

Mama puññabhāgaṃ sabbasattānaṃ bhājemi;
Phần phước của chúng con, xin chia đều đến tất cả sinh linh.

Te sabbe me samaṃ puññabhāgaṃ labhantu.
Mong tất cả hãy thọ nhận phần phước ấy được đồng đều nhau cả thảy.

Này các Tỳ khưu, từ xưa cho đến nay, Như Lai chỉ nói lên sự khổ và sự chấm dứt đau khổ.5 uẩn là khổ, ai hoan hỷ 5 uẩn, n...
04/12/2025

Này các Tỳ khưu, từ xưa cho đến nay, Như Lai chỉ nói lên sự khổ và sự chấm dứt đau khổ.

5 uẩn là khổ, ai hoan hỷ 5 uẩn, người ấy hoan hỷ khổ. Ai hoan hỷ khổ, Như Lai nói rằng, người ấy không giải thoát khỏi khổ.

Không có cái gì sanh ra mà không già và không chết.

Chính trong cái thân thể dài một tầm có tưởng, có tâm thức này, Như Lai tuyên bố về thế giới, nguyên nhân của thế giới, sự đoạn diệt của thế giới, và con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới.

Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri. Do vậy, ngươi không bị ràng buộc bởi các phiền não tại đó. Vì rằng, ngươi không ở đây, không ở kia, không ở chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.

Hãy nương tựa chính mình, lấy Chánh Pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh Pháp làm nơi nương tựa, chớ nương tựa một nơi nào khác.

Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết bàn, đó là Tứ Niệm Xứ.

Đây là những gốc cây, đây là những trú xứ vắng lặng. Hãy tu tập thiền chỉ và thiền quán, đừng dễ duôi, đừng để phải hối hận về sau.

Này các Tỳ khưu, nay Ta khuyên các ngươi, các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật. Ðây là những lời cuối cùng của đức Như Lai.

Sammāsambuddhasāsane

Photo by Sutipond Somnam

DUYÊN   LUYẾN   ÁI   VÀ   DUYÊN   OAN   TRÁINhiều lúc trong hoàn cảnh éo le tự nhiên như Trương Chi thương Mỵ Nương thì ...
03/12/2025

DUYÊN LUYẾN ÁI VÀ DUYÊN OAN TRÁI

Nhiều lúc trong hoàn cảnh éo le tự nhiên như Trương Chi thương Mỵ Nương thì phiền lắm, nếu may mắn mà như Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung thì hên quá. Nhưng các vị biết chuyện Đồng Tử gặp Tiên Dung là chuyện cực hiếm , siêu hiếm , chứ đa phần chỉ trong cảnh éo le . Vì chúng ta thiếu 4 pháp tương đồng:

1- Đồng nhau về Niềm Tin
2- Đồng nhau về Bố Thí
3- Đồng nhau về Trí Tuệ
4- Đồng nhau về Giới Hạnh

Nếu chúng ta thiếu bốn hạnh tương đồng này mà chúng ta có gặp lại nhau thì một là không nhìn ra nhau vì nó chênh lệch nhiều quá , hai là nếu có nhìn ra nhau thương được nhau thì chính sự chênh lệch ấy cũng đẩy hai đứa về hai cái đầu cầu Ô Thước. Cầu Ô Thước là câu chuyện tào lao bên Tàu mà tôi mượn điển cố đó để nói ở đây. Ngưu Lang Chức Nữ mỗi năm chỉ gặp một lần mà nhờ đám quạ ( Ô Thước là đám quạ ) nó đội đá làm cầu Sông Ngân cho hai người gặp . Còn mình thì nhiều khi éo le mình gặp cảnh trắc trở nó còn tệ hơn Ngưu Lang Chức Nữ . Có nghĩa là gặp nhau để rồi ứa lệ chia tay nhau trên bến giang đầu lạnh lẽo mù sương. Đó là gieo duyên ái luyến không nên. Bởi vì chắc gì chúng ta có điều kiện thương nhau mà gần, thôi thì nếu không có duyên thì đừng gặp gỡ thêm phiền .

Duyên thứ hai là duyên oan trái. Gieo oan trái nó không tốt, tôi xin nhắn gửi xa gần mười phương ,nếu mình đang có lòng bất mãn ai thì hãy nhớ giùm câu này: không thương nhau được thì thôi , chứ đừng trét trấu tô vôi thêm phiền, nó đưa từ không thương qua tới ghét thì oan trái lắm . Trong khi đường sanh tử luân hồi mình đi , không thù oán gì mình đi đã mệt rồi ,còn cõng thêm nợ yêu thương người này, cõng thêm nợ ghét thù người kia chỉ thêm nặng vai, chậm bước trên đường sanh tử thưa quí vị. Khi mình đang oan trái, tức là mình cũng đang gieo duyên với nhau , các vị đừng nghĩ từ xưa tới giờ mình chỉ gieo duyên để gặp nhau ,để sáp vô với nhau, cái đó chỉ mới phân nửa thôi. Phân nửa còn lại là mình gieo duyên thương nhau và oan trái nhau, mình cột lòng hận thù vào nhau cũng là một kiểu gieo duyên để rồi đời sau kiếp khác mình kiếm nhau mà xử .

Sư Giác Nguyên giảng
FB Diệu Trí
----

Không có Thế tôn thì diện mạo của thế giới hôm nay đã khác đi nhiều lắm.Không có Thế Tôn nhiều người trong chúng ta đã t...
03/12/2025

Không có Thế tôn thì diện mạo của thế giới hôm nay đã khác đi nhiều lắm.
Không có Thế Tôn nhiều người trong chúng ta đã tự sát, đã bị mất trí rồi.
Không có Thế Tôn thì lịch sử Trung Hoa không có một Huyền Trang băng vạn dặm sa mạc để mang về một cái kho tàng minh triết, để đắp tô cho cái văn hóa, văn minh Trung Hoa.
Không có Thế Tôn thì hôm nay không có cái nền văn hóa Phật Giáo của Miến Điện, của Thái, của Lào, của Campuchia, của Mông Cổ, của Tây Tạng, của Nhật Bản, của Đài Loan, của Triều Tiên.
Không có Thế Tôn thì một phần tư nhân loại hôm nay, không biết gì về cái gọi là CON ĐƯỜNG THOÁT KHỔ.
Cái chuyện mà người ta có đắc hay không tôi không cần biết, tôi chỉ biết cái gọi là CON ĐƯỜNG THOÁT KHỔ là phải nói chỉ đến từ Đạo Phật.
Đạo Phật là nơi chốn duy nhất nói rõ cho mình biết Khổ là cái gì? Bản chất thế giới là cái gì? Và con đường đi ra khỏi nó. Dầu ngay bây giờ trong hình hài, trong thân phận, trong kiếp số của một phàm phu thì anh vẫn hoàn toàn có thể tìm một chốn về an lành cho anh, vì cái khoản này không đâu hơn được Đạo Phật hết. Và cái điều ấy lại do chính Đức Phật, người Tôn Sư đã đem lại cho mình.
Chỉ hiểu chừng đó thôi chưa có đủ đâu, phải hành trì thì chúng ta mới đúng là một người thờ kính Thế Tôn theo cách của một người Tri Kỷ.
Thờ kính Ngài vì hiểu Ngài, chứ không phải thờ kính Ngài chỉ đơn giản tin Ngài như tin một ông thần. Các vị hiểu không?
Trước khi Niếp Bàn, Chư Thiên muôn cõi đến rãi hoa mạn đà cúng dường Thế Tôn, lúc đó đức Thế Tôn hỏi ngài A Nan: "A Nan có thấy trên người Thế Tôn đầy những hoa do Chư Thiên cúng dường không?" (những hoa này không có trong khu vườn, ở đây chỉ có bông Sala thôi, hoa này là hoa của Chư thiên cúng)
"Bạch Thế Tôn con có thấy".
"Này A Nan trong các cách cúng dường, lễ bái đấng Như Lai ý nghĩa nhất, đẹp nhất, trang trọng nhất đó chính là hành trì lời dạy của Như Lai"
Mình có cúng bái cho Ngài cái gì đi nữa, bằng cái lễ phẩm kinh hoàng, hoành tráng cỡ nào đi nữa, cúng xong rồi 1 năm 3 bữa mình cũng quên sạch.
Cái người mà nhớ Phật nhiều nhất, thương Phật nhiều nhất, kính Phật liên lục nhất chính là cái kẻ hành trì lời Phật. Cái đó mới đúng là thương Phật.
Con sẽ thờ cúng Thế Tôn theo cái cách của một người tri kỷ, theo cái cách của một người học trò hiểu thầy.
Thờ với một cái lòng thương quý thật sự.
Trích đoạn bài giảng 20/06/2019 Sư Giác Nguyên
Viên Dung Theravada
From: Yosino Manasikāra

Tội LỗiSáu căn vốn dĩ không tội lỗi, sáu trần vốn dĩ không tội lỗi. Nhưng chính vì cái Ái nó gắn kết hai cái này lại mà ...
03/12/2025

Tội Lỗi

Sáu căn vốn dĩ không tội lỗi, sáu trần vốn dĩ không tội lỗi. Nhưng chính vì cái Ái nó gắn kết hai cái này lại mà nó trở thành tội lỗi. Thích một cái gì đó là một tội lỗi. Bất mãn trong một cái gì đó cũng là một tội lỗi. Mặc dù nói theo ngôn ngữ thế gian thường tình, tội lỗi ngoài đời nó khác. Tội lỗi là cái gì đó mà xã hội lên án, đạo đức lên án, pháp luật lên án, dư luận, quan điểm của quần chúng, thiên hạ lên án, cái đó mới gọi là tội lỗi.

Nhưng riêng trong Phật pháp, cái gì mà nó do phiền não thúc đẩy, cái gì mà có thể tạo ra quả xấu ở đời sau thì cái đó được gọi là tội lỗi. Gọi là akusala kamma. Đạo Phật rốt ráo như vậy đó. Theo như trong kinh Phật một ruộng muối cũng là muối, một lu muối cũng là muối, một muỗng muối cũng là muối, một hạt muối cũng là muối. Đó là Phật pháp. Còn cái kiểu ngoài đời họ nói chữ tội lỗi phải là một tô muối, một thùng muối, một lu muối, một ruộng muối mới là muối, còn một muỗng muối, một hạt muối thì họ không kể. Nhưng đừng có coi thường một muỗng muối. Có vị nào coi thường, các vị hãy tưởng tượng, trong một ly nước lọc, người ta bỏ vô một muỗng muối, đối với mình một muỗng muối nó nhiều hay ít? Khó nói lắm. Ly nước lọc mà bỏ một muỗng muối vô thì hình như hơi nhiều. Còn một hạt muối nhiều hay ít? Tôi nghĩ cũng tùy chỗ, có nhiều chỗ cũng lớn lắm không phải nhỏ. Thí dụ các vị đang ngủ, mà tôi bỏ một miếng muối hột trong miệng các vị, thì một miếng muối hột là hơi nhiều. Hoặc trong con mắt của mình, mình chỉ dính một xíu muối bột thôi là mình thấy 12 ông trời. Cho nên muối muôn thuở đều là muối, dù ít cách mấy, dù nhiều cách mấy cũng là muối. Tội lỗi dầu ít hay dầu nhiều cũng là tội lỗi. Nhớ rõ điều đó.

Từ nay về sau mình khỏi hoang mang thắc mắc, mình không biết mình đi chùa mà mình bực mình như vậy mình có tội hay không? Khỏi cần thắc mắc chỉ cần nhớ: "Một muỗng muối để cạnh một lu đường thì muỗng muối ấy vẫn cứ là muỗng muối, một muỗng đường nằm cạnh một lu muối thì muỗng đường ấy vẫn cứ là muỗng đường." Đây là công thức rất là khoa học.

Cho nên chính vì không có trí tuệ nhận thức hiểu biết trong bốn đế, không biết được mọi sự đều là khổ, không biết thích cái gì cũng là thích trong khổ, nên người ta mới tiếp tục đầu tư trong khổ. Chẳng qua là người ta trốn cái khổ này đi tìm một lối thoát bằng cách là đến với một cái khổ khác mà thôi. Điều này nếu không học Phật pháp thì ta không có biết. Cho nên xúc là một phần riêng biệt. Và cái niềm đam mê trong xúc cũng là một phần riêng biệt. Mà sao lại có niềm đam mê ấy? Chính là vì có tham ái kết nối mọi thứ với nhau.

Trích bài giảnng Hatthisariputta
Kalama xin tri ân bạn chanvinghiem ghi chép.

DÍNH Trong Kinh Tăng Chi, phần bốn chi, đức Phật dạy rất rõ:  "Có một điểm khác biệt rất lớn giữa đệ tử Như Lai và những...
02/12/2025

DÍNH

Trong Kinh Tăng Chi, phần bốn chi, đức Phật dạy rất rõ: "Có một điểm khác biệt rất lớn giữa đệ tử Như Lai và những người không phải đệ tử Như Lai .

Đó là những người không phải đệ tử Như Lai: Một là họ chìm sâu trong thế giới của 5 dục: sắc, thinh, khí, vị, xúc, trong khi đệ tử Như Lai họ có thể tiếp tục sống giữa 5 dục nhưng mà họ chán sợ 5 dục, từ chán sợ đó họ tu tập Bát Chánh Đạo được giải thoát.

Hai là có những người biết chán sợ 5 dục, biết coi rẻ, coi nhẹ nó để mà hướng đến đời sống thiền định, nhưng vì không học được Phật pháp cho nên khi họ được một tí ti trong thế giới thiền định là họ đam mê."

Đắc được sơ thiền là chết mê chết mệt trong cái sơ thiền. Chưa kể thiền dưới sơ thiền, chỉ cần mình ngồi thiền mà mình lắng tâm, mình theo dõi hơi thở ra vào biết rõ, đi đứng nằm ngồi biết rõ. Tôi hứa với các vị, bảo đảm với các vị: Nếu các vị sinh hoạt trong chánh niệm, khi không có gì để làm thì ngồi yên theo dõi hơi thở, nếu mà các vị lắng tâm như vậy trong 1 ngày 2 ngày 3 ngày, thì an lạc ghê lắm. Đó là nói thiền quán.

Còn bên thiền chỉ mình tập trung như vậy thì các vị sẽ được những cảm giác mà từ xưa đến giờ mình chưa từng có, đó là cảm giác mát lạnh, nó rần rần chạy từ đốt xương cùng chạy lên tới ót, nó rần rần, mát lạnh từng cơn. Có người cảm giác giống như sóng biển… Cho nên tùy người, có người cảm giác mát mẻ từng cơn, có người cảm giác nhẹ bổng, có người cảm giác phát quang.

Rồi cứ vậy mà mê, cứ ăn rồi cứ chờ thu xếp chuyện nhà xong chạy vô góc ngồi xếp bằng để tìm cảm giác đó, rồi họ tưởng là họ tinh tấn tu hành, trong khi họ không hề biết rằng: họ đã bị lụy rồi. Trên hành trình vạn lý họ đã bị chết dọc đường, vì mải mê hái hoa bắt bướm, mà họ không biết. Họ chỉ biết rằng: họ đang có mặt trên đường thì họ khá hơn đứa ở nhà đang bắn bi, đang đánh đáo, đang tắm sông, đang hái trái .

Đúng. Họ hơn chúng, họ là những đứa trẻ dám đi trên con đường vạn lý để tìm về một tương lai, một phía trước của người lớn. Nhưng mà họ lại quên, ngay tại đây và bây giờ, trên quãng đường này, rằng họ đang lụy vì con ong con bướm, lụy vì những thứ của đường xa xứ lạ mà họ không biết. Mà trong khi đó, mục đích của hành trình này không phải là hoa bướm trên đường, không phải, mà đích đến ở đàng kia kìa, và họ chết ngay trên đường.

Đó là những điểm khác biệt lớn giữa những người đệ tử của Ngài và không phải đệ tử Ngài. Ngài nói đệ tử Ngài dầu sống trong 5 dục nhưng vẫn chán sợ 5 dục và lấy cái chán sợ đó làm cái giàn phóng và lấy 5 quyền là uranium làm cái nhiên liệu để vọt ra khỏi quỹ đạo sanh tử. Rồi khi đệ tử của Ngài tu thiền, họ cũng chỉ coi thiền đó là định học trong tam học mà thôi, Giới Định Tuệ. Giới học, Định học và Tuệ học. Đệ tử của Ngài có đắc cái gì đi nữa cũng chỉ coi thiền như là phương tiện để vọt ra khỏi quỹ đạo sanh tử, thiền coi nó như là uranium thôi nhe.

Cho nên chữ satta có nghĩa là dính. Dính là sao? Đa phần chúng sanh, khi chưa là thánh nhân thì mình luôn luôn trong tình trạng trực chờ để dính. Dính trong hai cách, dính vì ghét và dính vì thích. Và sáu căn của mình luôn luôn trong tình trạng tổng động viên, quý vị biết không? Và khi đứa này làm việc thì các đứa khác trong tình trạng tổng trù bị, có nghĩa là sáu căn không thể cùng lúc làm việc nhưng mà khi con mắt đang mê cái gì đó thì lỗ tai đang trực chờ, anh xong là tới phiên tui à nhe.

Theo như A Tỳ Đàm giải thích như vậy. Sáu căn nó dặn nhau như vậy đó, khi lỗ mũi hít cái mùi gì đó, thì lỗ tai nó dặn: anh ngửi xong là tới tui đó nghe, tới phiên tui làm việc, và lúc đó con mắt cũng dặn: mấy anh mà quởn là tui nhào vô. Cho nên ở trong kinh Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo nếu các ngươi đem con cá, con chim, con chồn, con cáo, con rắn, con rít mà bỏ chung vô một chỗ thì nếu có cơ hội thì con cá sẽ tìm về nước con chim sẽ tìm về trời, chồn, cáo, rắn, rít sẽ tìm về lùm bụi, hang hố."

Cái vị dụ đó hay quá sức hay. Cũng vậy sáu căn luôn luôn trong tình trạng trực chờ để đi tìm về cái trần nào đó trong sáu trần. Cho nên chúng sanh phàm phu gọi là satta, nghĩa là mấy cái đứa ăn rồi canh me để chờ dính, nên người ta gọi là satta, hay lắm quý vị nhe. Mắt dính cái này, lỗ tai dính cái kia. Dính có hai cách, nó dính bằng cách nó ghét hoặc nó dính bằng cách là nó thích. Xuất sắc lắm.

Phật pháp không chịu học thì thôi, chứ khi mình học Phật pháp cho tới nơi thì sẽ thấy nó lớn chuyện lắm.

Sư Giác Nguyên giảng
Trích KTC.6.63. Pháp Môn Quyết Trạch
Kalama tri ân bạn chanvinghiem ghi chép

Đừng nghĩ ta già, ta chết, ta sẽ đi đầu thai. Nghĩ vậy là sai bét. Vì kiếp sau của bạn có thể là ngày mai, có thể chiều ...
01/12/2025

Đừng nghĩ ta già, ta chết, ta sẽ đi đầu thai. Nghĩ vậy là sai bét. Vì kiếp sau của bạn có thể là ngày mai, có thể chiều nay, có thể lát nữa.

Cái suy nghĩ kiếp sau nghĩa là đằng sau cái chết, mà cái chết lại là đằng sau tuổi già là rất sai. Chắc gì mình đã chết khi mình già.

Tóm lại: Mình sống như thế nào thì có nghĩa là chúng ta kín đáo xây dựng cho mình 1 thế giới cho kiếp sau. Kiếp sau ấy không phải là đến khi chúng ta đã già, không cần phải trải qua một cơn bạo bệnh, không cần phải trải qua những năm tháng liệt giường, liệt chiếu. Kiếp sau có thể là ngay bây giờ.

Trong Kinh dạy chúng ta có 3 lý do để chúng ta liên tục sống chánh niệm:

Không biết chúng ta sẽ chết lúc nào
Không biết được cơ hội đắc đạo của chúng ta là khi nào
Khi mình thất niêm, khả năng tạo ác nghiệp của mình cực lớn

Tôi nhắc lại: Chúng ta luôn luôn tu hành bằng tâm rất là tiểu thừa, nghĩa là luôn tu với cái tâm mặc cảm: tôi là người vô duyên, thiếu phước, giờ tôi phải vun bồi phước báu để kiếp sau tôi đắc. Cái kiểu tu này rất là sai vì kiếp trước mình đã tu bao nhiêu mình không biết. Cho nên vun bồi ba la mật không bằng phát huy ba la mật.

Có 5 điều kiện để đắc đạo trong đời này:

1. Có sức khỏe tốt
2. Có nền tảng cơ bản kiến thức giáo lý
3. Có thầy bạn tốt
4. Có trú xứ thích hợp
5. Hành thiền liên tục.

Năm cái này mình làm được cho thấy rằng ba la mật của mình cũng không đến nỗi xoàng. Trong Kinh Trường Bộ, đoạn cuối bài Kinh Tứ Niệm Xứ có đoạn “Này các tỳ kheo, một người tinh tấn tu tập Tứ niệm xứ này thì lâu nhất là bảy năm, nhanh nhất là bảy ngày sẽ chứng đắc được hai quả: Alahan và Anaham.”

Hồi đó nghe đoạn này tôi rất shock vì tôi nghĩ: "Ủa, sao đắc khó vậy mà Ngài nói chắc chắn vậy?" Nhưng đến khi già tôi mới hiểu: "Không dễ gặm đâu. Đó là một cách nói mẹo."

Quý vị nghe kỹ điều này: Nếu tu đúng bốn niệm xứ này thì chậm lắm bảy năm cũng đắc. Cho đến khi già mình nghiệm ra: Ba la mật yếu làm sao mà có thể tu đúng trong bảy năm được? . Tu đúng là rất mệt vì chín mươi chín phần trăm người tu thiền Tứ niệm xứ đều có cái hiểu lầm vô cùng lớn này: Tất cả đều quán chiếu danh sắc từ vị trí TÔI. Tôi đang thở ra, tôi đang thở vào, Tôi đang có tâm thiện, Tôi đang có tâm bất thiện, lúc này chánh niệm của tôi tốt, v.v...

Cho nên có một câu chuyện là một anh say rượu cầm một cái búa rất to vào phòng đập nát tất cả mọi thứ, nhưng có duy nhất một thứ anh ta không đập được chính là cái búa.

Mình tu thiền là mình đập tan hoang hết (sắc, tài, tiền, danh lợi …), mình thấy cái nào cũng vô thường chỉ có cái thằng đang tu này là thứ thiệt thôi! Tức là nó quán chiếu tam thiên, đại thiện, ba đời mười phương đều vô ngã, vô thường. Nó nói nghe đã lắm nhưng cuối cùng cái thằng này là thằng ngon lành nhất, cả cái thiền đường này không có ai tu tốt bằng thằng này đó. Chết ngay là ở chỗ này. Chín mươi chín phần trăm người ba la mật yếu không làm được chuyện đó, không làm được chuyên nhìn mình như nhìn người khác.

Có những chuyện mình làm không thấy kỳ mà nhìn người ta làm mình lại thấy kỳ. Ví dụ thấy người ta ăn uống nhồm nhàm thì không thấy đẹp nhưng chính mình đang ăn vậy thì lại không thấy.

Nên chín mươi chín phần trăm người tu Tuệ quán phải tập cho được cái này. Trong Kinh nói đối với Tứ Đế phải suy nghĩ và phải hiểu như sau:

"Chỉ có sự khổ chứ không ai chịu khổ;
Chỉ có nguyên nhân tạo ra khổ chứ không có ai tạo ra khổ;
Chỉ có sự thoát khổ chứ không có người thoát khổ;
Chỉ có con đường thoát khổ chứ không có kẻ hành trì con đường ấy."

Cái này rất là sâu. Phải có một ngày bà con thấy rằng lại có tâm tham xuất hiện và rồi lại có nguyên nhân khổ. Thấy vậy là đủ rồi chứ đừng có tư tưởng "tôi" đang bị tham, "tôi" đang bị khổ. Cái đó rất là kẹt.

Trong Kinh ghi rất rõ: Khi một hành giả đang bị bệnh chỉ có hai cách quán chiếu như sau: "Tôi đang bị đau" hay là "Cơn đau đang có mặt."

Cách thứ hai tốt hơn vì theo cách thứ hai thì cơn đau dừng lại ở cái đau, không có thêm nữa.

Còn cách thứ nhất thì cơn đau bị nhân đôi. Đau rồi còn có TÔI đau nữa (Đau tâm lý và Đau sinh lý). Có học A Tỳ Đàm chúng ta sẽ thấm cái này dữ lắm.

Đêm qua tôi nhận được một cú phone từ Việt Nam, có một Sư cô mất do ung thư, người gọi điện là người em, cũng là một ni. Trước khi mất Sư cô có nói một câu dặn lại cho mấy chị em cùng là ni cô: "Không thể tu chơi chơi được. Phải tu rốt ráo nếu không lúc này chịu không nổi."
_______

Trích bài giảng Vài nét tiêu biểu về chúng sanh và vũ trụ.
Sư Giác Nguyên giảng
Fb Sư Khanti

30/11/2025
TÀ KIẾN...Nhớ dùm ở đây không có phải là mình tu để mình mong đắc cái này, đắc cái kia để mà được, cái...
30/11/2025

TÀ KIẾN...Nhớ dùm ở đây không có phải là mình tu để mình mong đắc cái này, đắc cái kia để mà được, cái chữ đắc ở đây có nghĩa là mình phải có cái gì đó mà mình có thể cầm đi, chớ không phải nói như vậy là đi ngược lại điều tôi đã nói rất là nhiều lần, đó là:
- Cái lý tưởng rốt ráo của Đạo Phật tu không có phải là để được cái gì, mà là để buông được bao nhiêu, nhưng mà đây là trong một cái bối cảnh khác, thì mình phải quay lại cái tinh thần đó, nhưng mà đang nói về cái Pháp Tùy Niệm thì tôi phải nói đến chữ đắc, thì trong đời tu của mỗi người dầu chúng ta có như con giòi đi nữa nhưng chúng ta cũng phải có một cái lận lưng chứ, chứ mình nói bây giờ tôi có vợ, có chồng, có con có cái tôi phải lo, không có được nói như vậy, mình có là cư sĩ hay là ông Tăng Ni gì đi nữa thì mình cũng phải có một cái lận lưng, chứ mình không thể nói là bây giờ tôi là cư sĩ, bây giờ tôi không có thời gian, tôi không có điều kiện, v.v. nói như vậy không được, bởi vì mai này tắt thở mỗi người trong chúng ta coi như đang dấn bước vào một hành trình diệu vợi và thăm thẳm đằng đẳng phía trước, thì chúng ta phải có cái cầm tay chứ, làm sao mà mình có thể nói là tôi là cư sĩ được, đấy là một cái tà kiến quý vị biết không?
- Khi mà mình nghĩ rằng tôi còn sống được 10 năm, 20 năm nữa, đây là một thứ tà kiến, đó là thường kiến, mà khi mình nghĩ rằng tôi là cư sĩ tôi không có cần tinh tấn như hàng xuất gia, đây cũng là một thứ tà kiến, mà nó cũng là thường kiến, là vì sao?
- Là vì trong bụng mình len lén mình nghĩ rằng nó không sao, trong đó nó có một chút đoạn kiến trong đó, tôi phải nói rõ nó có một chút đoạn kiến, mình không sợ lắm vấn đề báo ứng, có nghĩa là nó có phản phất cái đoạn kiến trong đây, và tôi nhắc lại trong room lần nữa đừng có nghĩ rằng biết Đạo là không có tà kiến, chỉ có Tu-đà-hòan mới hết tà kiến thôi!
- Còn phàm phu mình trong mỗi cái suy nghĩ của mình nó đều lấp lánh lẩn khuất cái tà kiến trong đó mà mình không biết, thí dụ như mình nói: Ô còn trẻ mà! có nghĩa là trong đó nó có cái thường kiến, mình còn tin rằng mình còn có thể tồn tại lâu, mình không có biết được rằng trong từng phút giây danh sắc nó đang sanh diệt, mà chính cái thường kiến nó mới cho mình một cái niềm tin như vậy.
Sư Giác Nguyên

SỰ HOẠI DIỆT CỦA KIẾP (KAPPA)I. Vào cuối một chu kỳ, thế giới có thể bị hủy diệt bởi lửa, nước hoặc gió. Sự hủy diệt bởi...
30/11/2025

SỰ HOẠI DIỆT CỦA KIẾP (KAPPA)
I. Vào cuối một chu kỳ, thế giới có thể bị hủy diệt bởi lửa, nước hoặc gió. Sự hủy diệt bởi lửa là loại phổ biến nhất, và kiếp (kappa) mà chúng ta đang sống hiện nay sẽ kết thúc theo cách này. Các nguồn tài liệu chú ý nhiều nhất đến loại kết thúc này và chúng ta sẽ theo sự dẫn dắt đó bằng cách mô tả sự hủy diệt bởi lửa một cách chi tiết trước tiên.¹⁶⁶
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy thế giới sắp đi đến hồi kết là sự xuất hiện của một đám mây lớn, Đại Vân Hủy Diệt Kiếp (kappavinaˉsakamahaˉmegho), trải rộng trên một ngàn tỷ (koṭisatasahassa) chuyển thế giới (cakkavaˉḷa).¹⁶⁷ Tiếp theo đó là một trận mưa lớn làm vui lòng những người đang hăng hái gieo trồng mùa màng, nhưng khi mưa tạnh, nó tạnh hẳn mãi mãi. Theo sau là một trận hạn hán kéo dài trong nhiều trăm ngàn năm.
Một trăm ngàn năm trước sự kết thúc cuối cùng, một số vị Phạm thiên (brahmaˉ) nhìn thấy các dấu hiệu và cảnh báo cho chư thiên cõi Dục giới. Một số trong những vị này lại đảm nhận vai trò của các “Tổng trấn thế gian” (lokabyuˉha) và hạ xuống trái đất để cảnh báo những người ở cõi nhân loại (Vism-mhṭ 13). Những vị chư thiên dục giới này, xõa búi tóc,¹⁶⁸ đầu tóc rối bù, với khuôn mặt sầu thảm, lấy tay lau nước mắt, mặc y phục nhuộm màu xộc xệch,¹⁶⁹ đi khắp cõi nhân loại và đưa ra thông báo này:
“Trong một trăm ngàn năm nữa, sự kết thúc của kiếp (kappuṭṭhaˉna) sẽ đến. Thế giới này sẽ diệt vong. Đại dương sẽ khô cạn và quả đất lớn này cùng với núi Tu-di (Sineru) sẽ bị thiêu rụi và hủy diệt. Thế giới sẽ bị hủy diệt cho đến tận Phạm thiên giới (brahmaloka). Hãy phát triển tâm từ, này các người thân, hãy phát triển tâm bi, hãy phát triển tâm hỷ, hãy phát triển tâm xả, này các người thân. Hãy tôn kính mẹ, tôn kính cha và kính trọng các bậc trưởng thượng trong gia tộc. Hãy tỉnh thức, chớ có buông lung.”
Họ đi khắp các nẻo đường của loài người, đưa ra thông báo này. Đây là sự náo động lớn vào cuối một kiếp.¹⁷⁰
Một trăm ngàn năm có vẻ như là một khoảng thời gian dài phía trước để một thông báo như vậy gây ra nhiều lo ngại, nhưng cần nhớ rằng, theo hệ thống A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakosˊa), những con người sống gần cuối tiểu kiếp (antarakappa) cuối cùng này sẽ có tuổi thọ được đo bằng hàng chục ngàn năm. Lời khuyên răn cho mọi người là phát triển bốn phạm trú (brahmavihaˉra), những thiền định mà khi hoàn thiện sẽ đảm bảo sự tái sanh vào Phạm thiên giới. Điều này sẽ là cần thiết, bởi vì tất cả các cõi của Dục giới sẽ sớm bị hủy diệt. Sẽ không còn nơi nào cho những chúng sanh này tái sanh ngoại trừ các tầng trên của Sắc giới (ruˉpaloka).
Các chúng sanh đều chết dần trong trận đại hạn hán. Sự trống rỗng lớn này bắt đầu từ dưới lên và địa ngục thấp nhất, A-tỳ (Aˉvici), là nơi đầu tiên trở nên trống rỗng.¹⁷¹ Không còn chúng sanh nào tái sanh vào đó nữa vì những người ở cõi nhân loại phát triển tâm tràn đầy từ ái (mettaˉ), được thúc đẩy bởi sự cảm kích (saṃvega). Ngay cả các loài động vật cũng phát triển tâm từ đối với con cái và anh chị em của chúng và tái sanh làm người hoặc chư thiên (AN-a 7:66). Sự di cư của các chúng sanh dần dần đi lên khi các cõi trở nên trống rỗng và hầu hết cuối cùng được tái sanh vào cõi Quang Âm (Aˉbhassara), cõi của các Phạm thiên nhị thiền, là cõi thấp nhất còn tồn tại sau khi ngọn lửa thiêu rụi mọi thứ bên dưới.
Các nguồn tài liệu nhận thức được những vấn đề lý thuyết do quá trình này đặt ra. Ngài Buddhaghosa (Phật Âm), trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), nói: “Không có sự tái sanh vào Phạm thiên giới nếu không có thiền định (jhaˉna), vậy làm thế nào những người đó, bị ám ảnh bởi sự khan hiếm thức ăn, xoay xở để được tái sanh vào đó?” Câu trả lời là bằng cách thực hành giới hạnh và phát triển tâm từ, ít nhất họ có thể tái sanh vào một trong các cõi trời Dục giới (saggas), và ở đó chứng đắc thiền định trước khi những thế giới đó cũng bị hủy diệt. Những người khác được tái sanh lên cao đơn giản nhờ sức mạnh của nghiệp (kamma) đã tạo trong các kiếp trước, bởi vì trong quy mô thời gian rộng lớn của luân hồi, không thể có chuyện một chúng sanh lại không có một nghiệp thù thắng nào đó (Vism 13: 33–35). Rốt cuộc, các chúng sanh sống trong tất cả các cõi này phải được tái sanh ở đâu đó: “Có lúc quả đất lớn này cháy rụi, nhưng không có sự kết thúc khổ đau cho những chúng sanh trôi lăn bị trói buộc bởi vô minh và tham ái” (SN 22:99).
A-tỳ-đạt-ma Câu-xá cũng thảo luận vấn đề này và cũng gợi ý rằng những chúng sanh không thể chứng đắc thiền định ban đầu được tái sanh vào một trong các cõi trời Dục giới, và chứng đắc thiền định ở đó. Văn bản đó bao gồm tất cả cư dân loài người của châu Bắc-curu (Uttarakuru) vào nhóm này, “bởi vì họ không thể rời khỏi Dục giới (kaˉmadhaˉtu).” A-tỳ-đạt-ma Câu-xá cũng gợi ý rằng một số chúng sanh trong địa ngục không thoát được mà tái sanh vào cõi địa ngục của một chuyển thế giới (cakkavaˉḷa) nào đó nằm ngoài phạm vi hủy diệt (AK 3:6. tr.476). Quan điểm này cũng được các phụ chú giải Pāli ủng hộ.¹⁷²
Trong quá trình diệt vong này, không có chúng sanh nào tái sanh vào các tầng thấp hơn của chuyển thế giới. Trước khi ngọn lửa lớn bắt đầu, không còn ai sống sót dưới mức cõi Quang Âm (Aˉbhassara). A-tỳ-đạt-ma Câu-xá nói quá trình này mất mười chín tiểu kiếp (antarakappa) để hoàn thành, chừa lại một tiểu kiếp cho quá trình hủy diệt vật lý (AK 3:6. tr. 479).
Sơ đồ minh họa quá trình 7 mặt trời hủy diệt thế giới
Sau khi tất cả chúng sanh đã chết và được tái sanh vào các Phạm thiên giới, quá trình hủy diệt vật lý của nhiều hệ thống thế giới bắt đầu với sự xuất hiện trên bầu trời của mặt trời thứ hai, Mặt Trời Hủy Diệt Kiếp (kappavinaˉsakasuˉriya). Mặt trời này mọc khi mặt trời ban đầu lặn và ngược lại, do đó toàn thế giới luôn ở trong ánh sáng ban ngày. Mặt trời này không giống như mặt trời ban đầu ở chỗ nó không phải là nơi ở của bất kỳ vị thiên nào mà là một hiện tượng vật lý thuần túy. Bầu trời bây giờ hoàn toàn quang đãng, không mây mù, và sức nóng của hai mặt trời làm khô cạn tất cả các dòng suối và con sông nhỏ trên thế giới, chỉ trừ năm con sông lớn: Hằng Hà (Gan˙gaˉ), Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, và Mahī.
Tiếp theo đó, sau một khoảng thời gian dài, là sự xuất hiện của mặt trời thứ ba. Bây giờ khi một mặt trời mọc, một mặt trời ở thiên đỉnh và mặt trời kia đang lặn. Mặt trời mới, cộng thêm vào những cái khác, làm khô cạn năm con sông lớn.
Sau một khoảng thời gian dài khác, một mặt trời thứ tư xuất hiện và bây giờ các hồ lớn của Hy-mã-lạp (Himavā) khô cạn: Hồ Anotattā, Sīhapapātā, Rathakārā, Kaṇṇamuṇḍā, Kuṇālā, Chaddantā, và Mandākiniyā.
Mặt trời thứ năm dần dần làm bốc hơi nước của các đại dương cho đến khi chỉ còn lại những vũng nước nông, giống như “dấu chân gia súc.”
Với mặt trời thứ sáu, quả đất lớn cùng với Núi Tu-di, vua của các ngọn núi, bắt đầu “bốc khói, cháy âm ỉ và tỏa khói” (dhuˉmaˉyantisaṃdhuˉmaˉyantisampadhuˉmaˉyanti). Toàn bộ thế giới tràn ngập những làn khói dầu cuộn xoáy (AN 7:66).
Sau một khoảng thời gian dài nữa, mặt trời thứ bảy và cuối cùng xuất hiện và bây giờ mọi thứ bùng cháy thành ngọn lửa. Núi Tu-di và toàn bộ chuyển thế giới bị lửa thiêu rụi và gió mang ngọn lửa lên cao thiêu rụi tất cả các cõi trời Dục giới và thậm chí cả thế giới của các Phạm thiên sơ thiền. Ngọn lửa dữ dội đến mức không để lại tro tàn; mọi thứ bị thiêu rụi, ngọn lửa không tắt cho đến khi ngay cả những hạt nhỏ nhất (aṇumattasan˙khaˉra) cũng bị tiêu hủy.¹⁷³ Bây giờ chúng ta đã trở lại với vũ trụ trống rỗng, “một bóng tối u ám vĩ đại.”
Các văn bản Pāli im lặng về việc sáu mặt trời bổ sung phát sinh như thế nào và từ đâu. A-tỳ-đạt-ma Câu-xá nói rằng chúng phát sinh do nghiệp chung (collectivekamma) của các chúng sanh đã từng cư trú trên thế giới, và chỉ có thể làm như vậy sau khi thế giới đã trống rỗng chúng sanh. Ngọn gió thổi bùng ngọn lửa là một “ngọn gió của Sắc giới” (ruˉpadhaˉtu), tức là Phạm thiên giới (AK 3:6. tr.491). Trong một chú thích của Poussin, ông trích dẫn Tỳ-bà-sa (Vibhaˉṣaˉ) (một văn bản Phạn ngữ) đề cập đến bốn giả thuyết về các mặt trời; rằng trong suốt sự tồn tại của thế giới, các mặt trời thừa vẫn ẩn sau núi Yugandhara, rằng mặt trời ban đầu chia thành bảy, rằng một mặt trời đơn giản là tăng lực lượng lên gấp bảy lần hoặc các mặt trời thừa tồn tại ở dạng ẩn cho đến khi nghiệp của chúng sanh khiến chúng biểu hiện trên bình diện vật lý (AK tr. 542, chú thích 497). Khả năng thứ ba, rằng một mặt trời duy nhất gia tăng sức mạnh, không khác mấy so với quan điểm khoa học hiện đại về cách hệ mặt trời này sẽ kết thúc, với việc mặt trời trở thành một ngôi sao khổng lồ đỏ khổng lồ và nuốt chửng các hành tinh bên trong.
Tác phẩm Thái Lan thời trung cổ Traibhūmikathā, “Ba Thế Giới”, thêm một chi tiết đầy màu sắc. Theo nguồn đó, chính cơ thể đầy dầu của những con quái vật biển khổng lồ sống trong đại dương Sīdantara khi bắt lửa đã cung cấp nhiên liệu cho trận đại hỏa hoạn thiêu rụi Núi Tu-di và các dãy núi lớn khác.¹⁷⁴
Đức Phật đã thuyết Kinh Bảy Mặt Trời (SattasuˉriyaSutta) với mục đích giáo huấn cụ thể; Ngài muốn làm rõ cho người nghe về sự vô thường của mọi hiện tượng. Đối với những người nghe Ấn Độ cổ đại, không có gì trên thế giới có vẻ thường hằng và ổn định như Núi Tu-di và đại dương. Tuy nhiên, thời điểm sẽ đến khi ngay cả đại dương bao la không thể tưởng tượng nổi cũng sẽ khô cạn đến mức không còn đủ nước để làm ướt một đốt ngón tay. Và Núi Tu-di, “vua của các ngọn núi” to lớn và hùng mạnh cũng sẽ cháy rụi hoàn toàn đến mức không còn tro tàn. Xuyên suốt bài kinh là điệp khúc lặp đi lặp lại:
“Vô thường, này các Tỳ-khưu, là các hành. Không ổn định, không an toàn là các hành. Thật vừa đủ để chán nản với tất cả các hành, để ly tham đối với chúng, để giải thoát khỏi chúng.” (AN 7: 66)
Các bài kinh trong Tạng chỉ đề cập đến sự hủy diệt bởi lửa này. Các chú giải thêm hai khả năng kết thúc khác của một kiếp; hủy diệt bởi nước và hủy diệt bởi gió (Ví dụ: AN-a 4:156). Tuy nhiên, mầm mống của ý tưởng này được tìm thấy trong Trung Bộ Kinh 28, Kinh Đại Tượng Dấu (MahaˉhatthipadopamaSutta). Trong một phần của bài kinh đó, Đức Phật thảo luận về bốn đại và nhấn mạnh bản chất vô thường và không đáng tin cậy của chúng, Ngài nói rằng cả các yếu tố bên trong cơ thể và các yếu tố bên ngoài thế giới đều có thể bị xáo trộn. Ngài nói sẽ có lúc yếu tố nước bên ngoài bị xáo trộn và yếu tố đất sẽ không còn tồn tại. Chú giải liên hệ rõ ràng điều này với aˉposaṃvaṭṭakaˉla, sự kết thúc kiếp bởi nước. Sự xáo trộn của yếu tố gió biểu hiện trong sự tĩnh lặng chết chóc hoặc những cơn gió hủy diệt dữ dội và chú giải liên kết cái sau với vaˉyosaṃvaṭṭakaˉla, sự kết thúc kiếp bởi khí (hoặc gió).
Việc Đức Phật không có ý định đề cập đến sự tận thế trong bài kinh này được làm rõ trong mô tả của Ngài về sự xáo trộn của yếu tố lửa bên ngoài. Ngài nói rằng có lúc những ngọn lửa lớn thiêu rụi toàn bộ thành phố và thị trấn và quét qua các vùng nông thôn cho đến khi chúng gặp nước, núi hoặc các chướng ngại vật khác. Chú giải phải thừa nhận điều này không đề cập đến tejosaṃvaṭṭakaˉla, sự kết thúc kiếp bởi lửa vì ngọn lửa đó thiêu rụi mọi thứ và không để lại tro tàn.¹⁷⁵
II. Sự hủy diệt bởi nước bắt đầu với sự xuất hiện của một đám mây lớn kết thúc kiếp (kappavinaˉsaka−mahaˉmegha). Mưa bắt đầu rơi từ đám mây này, ban đầu nhẹ nhàng nhưng dần dần tăng lên thành một trận đại hồng thủy dữ dội. Nước mưa này không phải là nước thường mà là nước ăn mòn (khaˉrudaka) có tính ăn mòn cao. Cần nhớ lại rằng đây là cùng loại nước mà trên đó toàn bộ chuyển thế giới trôi nổi. Khi nước ăn mòn này trút xuống các thế giới, nó hòa tan mọi thứ cho đến những hạt vật chất nhỏ nhất. Nước được giữ lại như trong một cái bình bởi những cơn gió mạnh mẽ và dâng cao đến tận cõi Phạm thiên Quang Âm (Aˉbhassara, cõi nhị thiền) cũng bị hòa tan. Cõi thấp nhất thoát khỏi sự hủy diệt lần này là cõi Biến Tịnh (Subhakiṇha) của các Phạm thiên tam thiền. Nước chỉ rút đi sau khi mọi thứ trong tất cả các thế giới này đã bị hủy diệt hoàn toàn.
III. Sự hủy diệt bởi yếu tố gió bắt đầu với một ngọn gió kết thúc kiếp (kappavinaˉsanatthaṃvaˉta) ban đầu nhẹ nhàng, thổi tung bụi mịn. Nó dần dần tăng sức mạnh và sự dữ dội cho đến khi nhấc bổng những tảng đá khổng lồ và ném chúng đi. Trong giai đoạn dữ dội cuối cùng của trận gió lớn, các Núi Tu-di của nhiều hệ thống thế giới bị ném qua không gian, va đập vào nhau vỡ tan tành. Lần này mọi thứ bị hủy diệt lên đến và bao gồm cả cõi Biến Tịnh (Subhakiṇha) và cõi của các Phạm thiên tứ thiền là cõi duy nhất thoát khỏi sự hủy diệt (Vism 13: 56 t).
Ba phương thức hủy diệt thế giới tuân theo một mô hình cố định. Có bảy đại kiếp (mahaˉkappa) kết thúc bằng lửa, theo sau là một đại kiếp kết thúc bằng nước. Mô hình tám đại kiếp này được lặp lại bảy lần và sau đó là một loạt bảy lần hủy diệt bằng lửa nữa, theo sau là một lần hủy diệt bằng gió. Như vậy, toàn bộ chu kỳ kéo dài sáu mươi bốn đại kiếp, điều này không phải ngẫu nhiên, chính là tuổi thọ của một Phạm thiên cõi Biến Tịnh (Vism 13: 65).
Chú thích:
166. Các nguồn Pāli chính là AN 7: 66 Kinh Bảy Mặt Trời và Vism 13.28t., trong đó đưa lịch sử vũ trụ này vào phần về năng lực nhớ lại kiếp trước, nhằm làm rõ cụm từ “Vị ấy nhớ lại nhiều kiếp thế giới hoại và nhiều kiếp thế giới thành.”
167. Vism 13.32, đám mây này không được đề cập trong bản tường thuật của Tăng Chi Bộ.
168. Muttasirā. Bản dịch theo gợi ý của Vism-mhṭ 13.
169. Virūpavesadhārino. Vism-mhṭ 13 quy sự xuất hiện nhếch nhác của họ cho nỗi buồn và sợ hãi do sự tận thế sắp tới gây ra.
170. Sn-a 2:4. Xem thêm Vism 13.34. AN-a 7:66 có một phiên bản hơi khác, chư thiên ở đó bay trên trời và cảnh báo chúng sanh rằng “không có gì thường hằng ở đây, hãy phát triển tâm từ v.v.”
171. Điều này được coi là có vấn đề và Buddhaghosa thêm rằng “một số người nói” rằng chúng sanh ở A-tỳ địa ngục không chết cho đến gần cuối, với sự xuất hiện của mặt trời thứ bảy.
172. DN-ṭ 1. Xem Bodhi, AENV tr. 153.
173. Tất cả các mô tả này được lấy từ AN 7:66 và Vism 13.41.
174. Reynolds, Three Worlds According to King Ruang (Ba Thế Giới Theo Vua Ruang), tr. 309-310.
175. Phần này thảo luận về quan điểm của các bộ phái và chú giải về các loại hủy diệt khác ngoài lửa.
PUNNADHAMMO MAHĀTHERO
THE BUDDHIST COSMOS:
A Comprehensive Survey of the Early Buddhist Worldview, according to Theravāda and Sarvāstivāda sources

Address

Ho Chi Minh City

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Thực hành Thiền Vipassana posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram

Nơi chia sẻ Pháp học, Pháp hành và Pháp thành về Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ

Nơi chia sẻ Pháp học, Pháp hành và Pháp thành về Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ

1. Vô thường - Khổ - Vô ngã 2. Giới - Định - Tuệ 3. Văn - Tư - Tu 4. Bố thí - Trì giới - Tham thiền 5. Mười ba-la-mật 6. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo * Tứ Thánh Đế * Tứ Niệm Xứ * Tứ Chánh Cần * Tứ Như Ý Túc * Ngũ Căn * Ngũ Lực * Thất Giác Chi * Bát Chánh Đạo --- Trong mỗi bài chia sẻ hoặc dòng bình luận thì các thiền sinh cần CHÚ TÂM QUAN SÁT, và CHÁNH NIỆM khi khảo luận bất cứ đề tài nào. 1. Thân - Thọ - Tâm - Pháp 2. Danh sắc: Sắc/ Thọ/ Tưởng/ Hành/ Thức --- Hãy chú tâm quan sát và chánh niệm trong mọi sát-na, mọi phút giây. Với thiền sinh phải càng nên thận trọng xem xét việc này, nếu không có sự quan sát đó thì bài chia sẻ, dòng bình luận đó nên tự động xoá. - 80% thực hành - 10% chia sẻ pháp học (Tạm tạng kinh Nikaya, Vi diệp pháp, giới luật và bài dạy của các thiền sư với kinh nghiệm thực chứng, thấy biết như thật) - 10% chia sẻ tư duy về pháp học và pháp hành