Địa Đàng Tâm Lý

Địa Đàng Tâm Lý Eden Psychology - Nơi chúng tôi chia sẻ cùng bạn.

• Giữa lối sống bi quan và lạc quan, cái nào an toàn hơn? •Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ (APA) định nghĩa bi quan là “thái ...
27/08/2021

• Giữa lối sống bi quan và lạc quan, cái nào an toàn hơn? •

Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ (APA) định nghĩa bi quan là “thái độ cho rằng mọi chuyện sẽ tệ đi và rằng những mong ước hay mục tiêu của con người sẽ khó mà thành hiện thực.” [1]

Một người với tính cách bi quan thường có nhiều góc nhìn tiêu cực – hay có thể nói là “thực tế” theo một số quan điểm – về cuộc sống. Người lạc quan, mặt khác, lại nhìn mọi thứ tích cực hơn.

Người bi quan thường dự đoán kết quả theo chiều hướng tồi tệ và nghi ngờ khi mọi thứ có vẻ đang tiến triển tốt đẹp. Người lạc quan trông đợi vào kết quả thuận lợi và tìm kiếm những điều tốt đẹp khi cuộc sống không được như ý.

Bi quan không phải là một đặc trưng tính cách mà hầu hết con người ta muốn có. Thường nó liên đới với sự tiêu cực, một thái độ “nửa mùa”, trầm cảm, và những rối loạn khí sắc khác. Tuy nhiên, một chút suy nghĩ tiêu cực với “liều lượng” vừa phải không phải lúc nào cũng tệ. Mặc dù chúng ta đều bảo nhau phải cười, nghĩ về mặt tích cực, “đời quăng ta trái chanh thì hay làm một ly nước chanh”, nhưng đó không phải lúc nào cũng là một điều lành mạnh nên làm. Trong thực tế, đôi khi một chút bi quan thực sự có thể là một điều tốt.

Các nhà tâm lý học coi bi quan và lạc quan dao động như một quãng phổ (spectrum), trong đó mỗi quan điểm và đặc trưng tính cách của chúng ta nằm đâu đó trên quãng phổ này. Tại đầu mút của phổ, người bi quan cực điểm sẽ rất khổ sở và người lạc quan cực điểm có khi lại sống quá tách rời với hiện tại (nguyên văn của câu: At either end of the spectrum, the pure pessimist may be miserable and the pure optimist may be detached from reality).

Hầu hết mọi người đều nằm đâu đó ở khoảng giữa của phổ bi quan – lạc quan.

____________________________________

Một số gợi ý dưới đây có thể giúp bạn xác định được rằng mình là người có xu hướng bi quan hay lạc quan nhiều hơn:

- Bạn cảm thấy ngạc nhiên khi mọi chuyện tiến triển tốt đẹp.

- Bạn không theo đuổi cái bạn muốn vì bạn nghĩ rằng chắc mình sẽ thất bại thôi.

- Bạn luôn tập trung suy nghĩ vào những tình huống không hay có thể xảy ra.

- Bạn cho rằng cái hại lúc nào cũng tác động nặng nề hơn cái lợi.

- Bạn xuất hiện Hội chứng kẻ mạo danh (Imposter syndrome) và đánh giá thấp năng lực bản thân.

- Bạn có xu hướng tập trung vào những lỗi lầm và những điểm yếu của mình thay vì những điểm mạnh.

- Bạn thường cảm thấy phiền với sự lạc quan “ngập nắng” đến từ những người khác.

- Bạn thường có những sự độc thoại nội tâm tiêu cực.

- Bạn cho rằng tất thảy những điều tốt đẹp rồi cũng có ngày kết thúc.

- Bạn cảm thấy bằng lòng với tình trạng hiện tại hơn là cố gắng thay đổi nó trở nên tốt hơn.

Có thể bạn không phải lúc nào cũng trải qua tất cả những điều kể trên, nhưng người bi quan có xu hướng xuất hiện nhiều dạng suy nghĩ này ở một mức độ nhất định.

____________________________________

Phổ dao động Lạc quan – Bi quan (The Optimism – Pessimism Spectrum)

Mỗi người đều có những nốt “thăng” và “trầm” khác nhau mỗi khi suy nghĩ tích cực hoặc tiêu cực. Hoàn cảnh sống, tác động của thời gian và những trải nghiệm cũng có thể ảnh hưởng lên biên độ dao động bi quan hay lạc quan tương đối của chúng ta.

Ta thường lạc quan hơn về một khía cạnh đời sống nào đó và ít lạc quan hơn trong những khía cạnh khác. Tuy nhiên, tâm trạng và suy nghĩ của chúng ta thường nghiêng về một trong hai đầu của phổ, từ đó hình thành những tính cách lạc quan hơn và ngược lại.

Có nhiều lý do giải thích tại sao lại có một số người có dạng tính cách tiêu cực hơn người khác, bao gồm:

- Gen di truyền.

- Đặc điểm và đời sống gia đình.

- Những trải nghiệm trong quá khứ.

- Các yếu tố xã hội và môi trường sống.

Những người có góc nhìn bi quan hơn thường nhận được ít hỗ trợ hơn từ xã hội, sức bật tinh thần kém hơn, ít có khả năng đương đầu với căng thẳng, và có tỷ lệ mắc các rối loạn trầm cảm và lo âu cao hơn.

____________________________________

Ứng dụng

Mặc dù các yếu tố góp phần vào tính bi quan hầu hết đều mang tính tiêu cực, nhưng bi quan cũng có mặt tốt. Trong thực tế, bi quan ở một “liều lượng” lành mạnh có thể mang lại một số ích lợi. Cụ thể, người bi quan thường có sự chuẩn bị tốt hơn cho những thời điểm khó khăn và có thể tránh được những rủi ro mà những người lạc quan có thể không ngờ tới.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng người bi quan thường nhìn trước được những trở ngại một cách dễ dàng hơn vì họ luôn “tính” rằng mọi chuyện sẽ diễn biến tệ đi. Điều này có nghĩa là họ có khả năng cao sẽ lên kế hoạch để đối phó với những khó khăn đó.
Một nghiên cứu xuất bản năm 2013 trên Tập San Nghiên Cứu về Tính cách (the Journal of Research in Personality) đã phát hiện thấy những người hay suy nghĩ tiêu cực sẽ có khả năng xây dựng cho bản thân những “mạng lưới” bảo hộ an toàn hơn, chuẩn bị tốt hơn (cả thực hành và tâm lý) khi mọi chuyện diễn biến tệ. [2]

____________________________________

Tác động của lối suy nghĩ

Một khác biệt then chốt giữa cách một người bi quan và lạc quan suy nghĩ có liên quan tới kiểu lý giải vấn đề của họ, về cơ bản chính là cách con người ta phiên giải những gì diễn ra trong đời sống mình. Một người lạc quan sẽ tiếp nhận những sự kiện tích cực và phóng đại chúng lên, đồng thời giảm nhẹ tính tiêu cực của hoàn cảnh; một người bi quan sẽ làm điều ngược lại, coi nhẹ tính tích cực và hướng tập trung vào điều tiêu cực.

Khuynh hướng xem nhẹ điều tiêu cực – một trong những đặc tính của người lạc quan giúp tạo cảm hứng để họ mơ lớn và khuyến khích họ tiếp tục cố gắng thậm chí ngay cả sau khi phải đối mặt với những thất bại – cũng có thể làm xuất hiện một cảm nhận sai lệch về sự an toàn có thể khiến người lạc quan không thể nhận thức rõ những khó khăn tiềm ẩn và lên kế hoạch đối phó phù hợp. Nó cũng có thể khiến họ cảm thấy ngạc nhiên khi mọi chuyện diễn ra không như mong đợi.

Tuy nhiên, chính những đặc tính này – xem nhẹ điều tiêu cực và phóng đại điều tích cực – có thể giúp một người lạc quan vượt qua những khoảng thời gian khó khăn lại có thể đưa người bi quan tới một kết cục tăm tối và vô vọng hơn.

Một người lạc quan có thể tìm kiếm giải pháp mới thay vì đắm chìm trong vấn đề; họ thường có hy vọng vào tương lại và các kỹ năng ứng phó giúp họ vượt qua trở ngại, giúp họ biến “nguy thành an”.

Có rất nhiều nghiên cứu đã đi đến một kết luận là, để có một sức khỏe tốt thì hạn chế bi quan quan trọng hơn là gia tăng tính lạc quan. [3] Nói cách khác, bạn không cần lúc nào cũng phải hứng khởi quá mức. Chìa khóa ở đây có lẽ nằm ở việc hạn chế tác động tiêu cực lên sức khỏe của những suy nghĩ bi quan quá độ, trong khi đó, lúc nào cũng suy nghĩ tích cực đơn thuần cũng chẳng đem lại lợi ích gì to tát cho lắm.

____________________________________

Rõ ràng là quá bi quan mang đến nhiều điều hạn chế. Một số những “cạm bẫy” lớn của việc bi quan quá mức như:

- Chìm đắm trong những suy nghĩ tiêu cực không tốt với sức khỏe thể chất và tinh thần. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nữ giới có tỷ lệ mắc trầm cảm cao hơn cũng như thời gian trầm ngâm với bản thân, chìm đắm trong suy nghĩ và chiêm nghiệm bản thân nhiều hơn. [4] Trầm ngâm và tư lự đều là yếu tố cấu thành nên suy nghĩ bi quan.

- Suy nghĩ tiêu cực quá mức góp phần làm xuất hiện trầm cảm và lo âu. [5] Những triệu chứng chính của rối loạn lo âu đều là lo lắng, trầm tư quá mức, và lúc nào cũng tính đến viễn cảnh tồi tệ nhất. Tương tự như vậy, tâm trạng xuống dốc, suy nghĩ tiêu cực, lòng tự trọng thấp và lo lắng là những đặc tính không chỉ ở người bi quan mà còn là yếu tố đặc trưng trong trầm cảm. [6]

- Bi quan cũng góp phần gây ra những tác động tiêu cực lên sức khỏe. Tác động sức khỏe tiêu cực có liên quan mật thiết đến nhiều nguy cơ sức khỏe khác, như bệnh tim, cũng như tỷ lệ tử vong nói chung. [2]
- Người bi quan thường hay bị căng thẳng và có ít hơn các kỹ năng ứng phó. Một nghiên cứu đã cho thấy rằng ở người già, bi quan cũng có tương quan với tỷ lệ căng thẳng cao hơn, tập trung nhiều hơn vào những khía cạnh tiêu cực hơn trong cuộc sống, và khuynh hướng nhìn lại cuộc đời nói chung với một thái độ tiêu cực, từ đó làm giảm sự hài lòng với cuộc sống. [7]

Người lạc quan có mức căng thẳng giữ ở mức lành mạnh hơn và khả năng cảm nhận sự hài lòng với cuộc sống tốt hơn. Ngược lại, người bi quan có xu hướng trải nghiệm nhiều hơn sự đơn độc, xung đột và căng thẳng, và sức khỏe thể chất cũng như tinh thần suy giảm so với những người lạc quan.
Một nghiên cứu thực hiện năm 2015 phát hiện ra rằng “Tính tích cực có liên hệ mật thiết với sự điều tiết sinh lý tốt hơn trong một tình huống khó khăn, trong khi tiêu cực có liên quan đến khả năng điều tiết tâm lý kém hơn trước căng thẳng”. [8]
Một yếu tố đáng lo khác của tính bi quan là nó có thể khiến những tình huống căng thẳng trở nên tệ hơn so với thực tế. Mặt khác, suy nghĩ tích cực có thể cực kỳ hữu ích khi đương đầu với những sự việc thách thức cao.

____________________________________

Lợi ích và hạn chế của tính lạc quan

Một số lượng đáng kể nghiên cứu khoa học đã phát hiện ra rằng người lạc quan có xu hướng khỏe mạnh, hạnh phúc và thành công hơn (về tài chính, xã hội, và nhiều khía cạnh khác) và tận hưởng những mối quan hệ bền chắc và hạnh phúc hơn. Nhưng trời nắng không phải lúc nào cũng là trời đẹp.

Hạn chế của tính lạc quan là tỷ lệ làm liều cao hơn liên quan đến sức khỏe và an toàn cho cá nhân, như không thắt đai an toàn hoặc không tiêm vaccine, hoặc trong lĩnh vực chính, như đầu tư vào một phi vụ kinh doanh nhiều rủi ro.

Một nghiên cứu đăng trên tạp chí Tâm Lý học và Lão (Psychology and Aging) hóa năm 2013 đã phát hiện ra một mối tương quan giữa việc đánh giá thấp mức độ hài lòng cuộc sống tương lai với kết quả sức khỏe tích cực và tuổi thọ ở người lớn tuổi [9]. Nói cách khác, nghiên cứu này thấy rằng việc nghĩ cuộc sống ngày một tệ đi có liên quan đến một số lợi ích về sức khỏe.

Dù cho bạn có cân nhắc những hạn chế có thể tồn tại thì lợi ích của lạc quan vẫn vô cùng lớn:

- Suy nghĩ tích cực có liên quan đến sự hài lòng về mối quan hệ của các cặp đôi đang hẹn hò.

- Lạc quan càng cao thì khả năng tìm kiếm các hỗ trợ xã hội những lúc bị căng thẳng và khó khăn cao hơn cũng như mức độ các xung đột với người khác trở nên thấp hơn.

- Mức lạc quan cao trong các cặp vợ chồng cũng có mối liên hệ với sức khỏe tốt hơn. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức lạc quan ở một người bạn đời đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sức khỏe cả cả hai người. [10]

- Lạc quan cũng có liên đới với những dạng tính cách ấm áp, cởi mở hơn, và bi quan cũng có mối quan hệ mật thiết với những dạng tương tác thù địch và dễ quy phục người khác.

- Nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa lạc quan và tuổi thọ cao. [11]

- Lạc quan cũng có liên đới với mức độ hài lòng cao hơn với cuộc sống, kỹ năng đối phó, hỗ trợ xã hội và sức bật tinh thần tốt hơn.

Người bi quan có thể ít bị ngạc nhiên khi khủng hoảng xuất hiện nhưng người lạc quan cũng không chìm đắm trong trạng thái tiêu cực quá lâu vì họ có xu hướng tập trung vào tìm ra giải pháp thay vì trầm tư mãi về những thứ không như mong muốn.

____________________________________

Vậy làm sao ta có thể lạc quan mà vẫn không bỏ lỡ cơ hội giữ cho bản thân mình có được sự chuẩn bị tốt cho những khủng hoảng sắp đến? Đây là một số bước bạn có thể thực hiện:

“Hope for the Best, Plan for the Worst”
Gợi ý này giúp bạn tận hưởng nhiều lợi ích của thái độ lạc quan mà không để bản thân rơi vào trạng thái thiếu chuẩn bị và dễ bị thương tổn. Để đạt được lợi ích do thái độ lạc quan mang lại, hãy nghĩ về những điều đãng lẽ có thể tệ hơn và cố tìm ra những kế hoạch dự phòng và chuẩn bị ứng phó với những điều nằm ngoài kế hoạch. Sau đó, tập trung vào những điều tích cực trong khi vẫn giữ những kế hoạch dự phòng trong đầu.

“Remember What’s Important”
Hãy tận hưởng và nhớ đến những cái bạn có và hướng tới vun đắp lòng biết ơn. Dành thời gian để gom lại những thế mạnh và nguồn lực của bản thân. Căng thẳng xuất hiện khi nhu cầu của chúng ta vượt quá những gì chúng ta thật sự cần. Giữ vững sự kiên định trong tâm trí có thể giúp làm giảm căng thẳng và giúp bạn cảm thấy mình có khả năng làm chủ trong suốt cuộc đời. [4] Lối suy nghĩ này thực sự có thể có ích khi bạn đối mặt với khủng hoảng.
Luyện tập thiền chánh niệm cũng là một chiến lược hữu ích. Chánh niệm hay chú tâm là một kỹ thuật tập trung vào nơi chốn và khoảnh khắc hiện tại thay vì lo lắng về quá khứ hoặc tương lai.

“Remember That Whatever You Face Will Pass”
Một điều mà nghiên cứu về Tâm lý học Tích cực đã chỉ ra cho chúng ta đó là hầu hết mọi thất bại nhỏ sẽ không khiến con người ta cảm thấy không vui miễn là nó nằm trong dự đoán. Sau một vài tuần hay có thể một vài tháng, người nào trải qua một cú khủng hoảng lớn nói chung sẽ quay trở lại với mức hạnh phúc (hoặc không hạnh phúc) ở mức bình thường.
Người lạc quan nói chung thường hay cảm thấy vui, và người bi quan lại ít vui hơn. Nếu bạn là người bi quan, bạn luôn có thể học cách trở thành một người lạc quan. Đôi khi, chịu đựng một cơn khủng hoảng sẽ mang lại cho bạn đúng thứ động lực mà bạn cần để làm điều đó.

____________________________________

Vài dòng cuối...

“Tạo dựng những điều tốt nhất” có thể là một lời sáo rỗng, nhưng cách tiếp cận này có thể là chìa khóa đưa đến sức khỏe tốt, tuổi thọ cao và một cuộc sống vui vẻ. Trong thực tế, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ngoại trừ những người quá nghèo, người có nhiều tiền nói chung chưa chắc sẽ hạnh phúc hơn những người có ít tiền.

Thực ra, chính những người có bạn bè thân thiết và cảm quan mạnh mẽ về cộng đồng, những người cảm thấy biết ơn và những người cảm nhận được ý nghĩa cuộc sống mới là những người hạnh phúc nhất. [12] Kết luận cuối cùng ở đây là, nói chung, hướng tới lạc quan là lý tưởng – nhưng vẫn nên “thả” vào một chút bi quan.


____________________________________

Tài liệu tham khảo

[1] APA Dictionary. Pessimism. 2018.

[2] Smith TW, Ruiz JM, Cundiff JM, Baron KG, Nealey-Moore JB. Optimism and pessimism in social context: An interpersonal perspective on resilience and risk. J Res Pers. 2013;47(5):553-562. doi:10.1016/j.jrp.2013.04.006

[3] Whitfield JB, Zhu G, Landers JG, Martin NG. Pessimism is associated with greater all-cause and cardiovascular mortality, but optimism is not protective. Sci Rep. 2020;10(1):12609. doi:10.1038/s41598-020-69388-y

[4] Johnson DP, Whisman MA. Gender differences in rumination: A meta-analysis. Pers Individ Dif. 2013;55(4):367-374. doi:10.1016/j.paid.2013.03.019

[5] Rood L, Roelofs J, Bögels SM, Alloy LB. Dimensions of negative thinking and the relations with symptoms of depression and anxiety in children and adolescents. Cognit Ther Res. 2010;34(4):333-342. doi:10.1007/s10608-009-9261-y

[6] National Institute of Mental Health. Depression. Revised February 2018.

[7] Puig-Perez S, Pulopulos MM, Hidalgo V, Salvador A. Being an optimist or a pessimist and its relationship with morning cortisol release and past life review in healthy older people. Psychol Health. 2018;33(6):783-799. doi:10.1080/08870446.2017.1408807

[8] Puig-Perez S, Villada C, Pulopulos MM, Almela M, Hidalgo V, Salvador A. Optimism and pessimism are related to different components of the stress response in healthy older people. Int J Psychophysiol. 2015;98(2 Pt 1):213-21. doi:10.1016/j.ijpsycho.2015.09.002

[9] Lang FR, Weiss D, Gerstorf D, Wagner GG. Forecasting life satisfaction across adulthood: Benefits of seeing a dark future? Psychol Aging. 2013;28(1):249-61. doi:10.1037/a0030797

[10] Kim, ES, Chopik WJ, Smith J. Are people healthier if their partners are more optimistic? The dyadic effect of optimism on health among older adults. Journal of Psychosomatic Research. 2014;76,6:447-53. doi:10.1016/j.jpsychores.2014.03.104

[11] Lee LO, James P, Zevon ES, et al. Optimism is associated with exceptional longevity in 2 epidemiologic cohorts of men and women. Proc Natl Acad Sci USA. 2019;116(37):18357-18362. doi:10.1073/pnas.1900712116

[12] Mineo L. Good genes are nice, but joy is better. Harvard Gazette. Published April 11, 2017.

[ Hans - Chú ngựa thông minh ]Vào đầu những năm 1900, một con ngựa tên là Hans Thông Minh (Clever Hans) đã trở thành ngô...
18/08/2021

[ Hans - Chú ngựa thông minh ]

Vào đầu những năm 1900, một con ngựa tên là Hans Thông Minh (Clever Hans) đã trở thành ngôi sao ở Đức. Đi khắp các thị trấn và làng mạc ở Đức, Hans thể hiện sự hiểu biết đáng nể về ngôn gữ Đức, và hiểu biết còn đáng nể hơn về toán học. Khi được hỏi, “Hans, bốn nhân ba bằng mấy?” Hans gõ móng mười hai lần. Khi được đưa cho một thông điệp bằng chữ với câu hỏi, “Hai mươi trừ mười một bằng mấy?” Hans gõ chín lần, với sự chính xác đáng khen ngợi theo phong cách Phổ.

Vào năm 1904, ủy ban giáo dục Đức chỉ định một hội đồng khoa học đặc biệt đứng đầu là một nhà tâm lý học để nghiên cứu vấn đề này. Mười ba thành viên của hội đồng – bao gồm một quản lý rạp xiếc và một bác sĩ thú y – tin rằng nhất định đây là một trò lừa đảo, nhưng dù đã hết sức cố gắng họ cũng không thể phát hiện ra bất kỳ một mánh khóe hay thủ đoạn lừa gạt nào. Ngay cả khi Hans bị tách ra khỏi chủ, và những người hoàn toàn xa lạ đưa ra các câu hỏi, nó vẫn trả lời đúng hầu hết.

Vào năm 1907, nhà tâm lý học Oskar Pfungst bắt đầu một cuộc điều tra khác và cuối cùng thì sự thật cũng hé lộ. Hóa ra Hans trả lời đúng bằng cách quan sát kỹ ngôn ngữ cơ thể và biểu hiện khuôn mặt của những người đối thoại với nó. Khi Hans được hỏi bốn nhân ba bằng mấy, nhờ kinh nghiệm nó biết là con người mong chờ nó gõ móng một số lần nhất định. Nó bắt đầu gõ đồng thời quan sát kỹ con người. Khi Hans tisn gần đến con số đúng, con người bắt đầu trở nên mỗi lúc một căng thẳng hơn, và khi Hans gõ đúng số, sự căng thẳng đạt đỉnh. Hans biết cách nhận ra điều này nhờ tư thế cơ thể con người và vẻ mặt của họ. Khi đó nó dừng gõ, và quan sát sự căng thẳng được thay bằng kinh ngạc hay tiếng cười. Hans biết nó đã trả lời đúng.

Hans thông minh có khả năng này vì loài ngựa thường giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ cơ thể. Điều đặc biệt ở Hans là nó có thể sử dụng cách thức ấy để giải mã cảm xúc và ý định không chỉ với đồng loại của nó, mà còn cả với những con người không quen thuộc nữa.

[ Gaslighting - Hành vi thao túng tâm lý trong mối quan hệ độc hại ]Thuật ngữ “thao túng tâm lý” xuất hiện từ một vở kịc...
13/08/2021

[ Gaslighting - Hành vi thao túng tâm lý trong mối quan hệ độc hại ]

Thuật ngữ “thao túng tâm lý” xuất hiện từ một vở kịch năm 1938 của Patrick Hamilton, được biết đến với tên gọi “Đường phố thiên thần” (Angel Street) ở Mỹ và sau này được xây dựng thành bộ phim “Đèn khí đốt” bởi Alfred Hitchcock. Trong phim, một người chồng hay thao túng người khác cố khiến vợ mình nghĩ rằng bà ta mất trí bằng cách tạo ra những thay đổi ngấm ngầm trong môi trường nơi bà sống, bao gồm việc làm mờ dần ngọn lửa trên đèn khí đốt. Ông ta không chỉ tác động vào môi trường và khiến bà vợ tin rằng mình mất trí, mà ông ta còn lạm dụng và kiểm soát bà, cắt đứt bà khỏi gia đình và bạn bè.

Hậu quả là, bà vợ liên tục nghi ngờ bản thân mình, nghi ngờ cảm xúc, nhận thức và ký ức của chính mình, Ngoài ra, bà còn cảm thấy mình bị loạn thần, nhạy cảm quá mức và không thể kiểm soát bản thân, đây cũng chính mục tiêu của thao túng tâm lý – là khiến đối tượng cảm thấy rối loạn và không chắc đâu là thật đâu là giả.

Vì vở kịch là mô tả chính xác thể hiện các hành động kiểm soát độc hại mà những kẻ thao túng tâm lý hay sử dụng, các nhà tâm lý học và tư vấn viên bắt đầu dán nhãn dạng hành vi bạo lực tinh thần này là “gaslighting”.

____________________________________

Thao túng tâm lý (gaslighting) là một mánh khóe lợi dụng, xuất hiện trong các mối quan hệ mang tính lạm dụng. Nó là một dạng bạo hành tâm lý quỷ quyệt, đôi khi là ngấm ngầm khi kẻ bắt nạt hay kẻ lạm dụng khiến đối phương tự vấn chính những nhận định và thực tế họ cảm nhận được.

Về cơ bản, nạn nhân bị thao túng tâm lý sẽ bắt đầu tự hỏi liệu mình có bị điên hay không.

Thao túng tâm lý chủ yếu xuất hiện trong các mối quan hệ yêu đương và hôn nhân, nhưng cũng không có gì quá lạ khi hiện tượng này xuất hiện trong các mối quan hệ mang tính kiểm soát hoặc có thể xuất hiện trong các thành viên trong gia đình. Những cá nhân “độc hại” sử dụng mánh khóe này để áp quyền lên người khác nhằm thao túng bạn bè, người thân trong gia đình và đôi khi là cả đồng nghiệp của mình.

____________________________________

Thao túng tâm lý vận hành ra sao?

Thao túng tâm lý là một thủ đoạn làm suy yếu toàn bộ nhận thức về thực tại của bạn. Khi ai đó thao túng tâm lý bạn, bạn thường phải tự vấn bản thân, nghi ngờ trí nhớ và những nhận thức của chính mình.

Sau khi giao tiếp với người đang thao túng bạn, bạn sẽ bối rối và tự hỏi chuyện gì đang xảy ra với bản thân mình. Những thủ đoạn này làm bạn rối và khiến bạn tự nghi ngờ sự tỉnh táo minh mẫn của bản thân. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn cách thức người ta thao túng tâm lý nhau.

- Nói dối.

Những người có hành vi thao túng tâm lý thường là những kẻ nói dối quen thói và mang hơi hướng bệnh lý tâm thần. Họ nói dối trắng trợn trước bạn và không bao giờ thoái lui hay thay đổi câu chuyện của mình, thậm chí ngay cả khi bạn gọi họ ra nói chuyện hoặc đưa ra bằng chứng cho thấy họ đang lừa dối. Nói dối là nền móng của hành vi lừa gạt ở họ. Thậm chí ngay cả khi bạn biết họ đang nói dối thì họ nói nghe vẫn rất thuyết phục. Cuối cùng, bạn bắt đầu nghi ngờ chính bản thân mình.

- Nghi ngờ bạn.

Những kẻ thao túng tâm lý lan truyền đồn đoán và tán dóc về bạn với người khác. Họ có thể giả vờ lo lắng cho bạn trong khi ngấm ngầm nói với mọi người rằng bạn bị điên hoặc tinh thần bất ổn. Không may là, thủ đoạn này có thể cực kỳ hiệu quả và nhiều người đã về phe với kẻ lạm dụng hoặc bắt nạt mà không hề biết được toàn bộ câu chuyện.

Ngoài ra, kẻ thao túng có thể lừa bạn và nói với bạn rằng người khác nghĩ bạn điên. Những người này có thể chẳng bao giờ nói tệ về bạn, nhưng chính kẻ thao túng sẽ tìm mọi cách để khiến bạn tin là những người kia có nói như vậy.

- “Đánh trống lảng”.

Khi bạn hỏi kẻ thao túng một câu hỏi hay gọi họ ra giải thích cho một điều gì đó họ nói hoặc làm, họ có thể chuyển chủ đề bằng cách hỏi lại một câu hỏi thay vì phản hồi lại chính vấn đề bạn hỏi. Họ sẽ trơ tráo nói dối về tình huống đó bằng cách nói những câu kiểu như: “Mày đang bịa chuyện. Điều đó chưa bao giờ xảy ra.”

- Coi nhẹ suy nghĩ và cảm xúc của bạn.

Tầm thường hóa cảm xúc giúp kẻ thao túng tâm lý có được sức mạnh kiểm soát bạn. Họ sẽ nói những lời như: “Bình tĩnh nào,” “Mày đang làm quá,” hay “Sao phải nhạy cảm như vậy?” Tất cả những câu nói này làm giảm nhẹ cảm xúc và suy nghĩ của bạn và gửi đi thông điệp: bạn là người sai.

Khi bạn đối phó với người không bao giờ công nhận những suy nghĩ, cảm xúc hay niềm tin trong bạn, thì bạn bắt đầu tự vấn chính những điều đó ở bản thân. Ngoài ra, bạn chẳng bao giờ cảm thấy mình có giá trị hay được thấu hiểu, điều này có thể cực kỳ khó xử lý.

- Đổ lỗi ngược.

Đổ lỗi ngược là một thủ đoạn thường gặp khác ở những kẻ thao túng tâm lý. Mỗi cuộc hội thoại của bạn với họ đều bằng một cách nào đó “quay xe” theo hướng bạn chính là kẻ đáng bị đổ lỗi vì những gì đã xảy ra. Thậm chí ngay cả khi bạn cố thảo luận về việc hành vi của họ khiến bạn cảm thấy như thế nào, thì họ vẫn có thể “xoay chuyển” cuộc hội thoại theo ý họ và cuối cùng lỗi lầm lại thuộc về bạn.

Nói cách khác, họ thao túng tình huống để rồi dần dần, sau cùng là tin rằng bạn chính là căn nguyên cho hành vi tội lỗi họ gây ra. Họ tuyên bố là giá mà bạn hành xử khác đi thì họ đã không làm ra những hành vi như vậy.

- Chối bỏ những việc làm sai trái.

Những kẻ lạm dụng và bắt nạt thường bị người ta biết đến với năng lực chối bỏ những điều sai trái đã làm. Họ làm vậy để tránh phải chịu trách nhiệm cho những lựa chọn sai lầm của bản thân. Nhưng nó cũng khiến nạn nhân bị thao túng trở nên bối rối và phiền lòng vì không ai công nhận nỗi đau họ phải chịu đựng. Sự chối bỏ này khiến cho nạn nhân khó tiếp tục sống cuộc sống bình thường hoặc chữa lành khỏi quá khứ bị bắt nạt hoặc lạm dụng.

- Sử dụng những lời nói yêu thương làm công cụ.

Có lúc khi bị gọi ra để đối chất hoặc giải thích, một kẻ thao túng tâm lý sẽ sử dụng những lời lẽ yêu thương và tử tế để cố xoa dịu tình huống. Họ có thể nói những câu như “Em biết anh thương em đến thế nào mà. Anh sẽ không bao giờ cố ý làm em tổn thương.” Những lời này là cái bạn muốn nghe, nhưng lại không thật, đặc biệt là nếu kiểu hành vi này cứ lặp đi lặp lại.

Khi bạn phải đương đầu với ai đó sử dụng thủ đoạn thao túng tâm lý, hãy chú ý đến những gì họ làm, chứ không phải những gì họ nói. Liệu người này có thực sự yêu thương, hay họ chỉ đang vờ nói những lời tốt đẹp?

- Bóp méo và tái chỉnh khung các cuộc hội thoại.

Những kẻ thao túng tâm lý thường hay sử dụng thủ đoạn này khi bạn đang thảo luận về một thứ gì đó đã xảy ra trong quá khứ. Ví dụ, nếu bạn đời của bạn dí bạn vô tường và về sau bạn đang thảo luận lại chủ đề này thì đối phương có thể sẽ bóp méo câu chuyện để có lợi cho họ. Họ có thể sẽ nói, bạn vấp té và họ cố giữ bạn lại, và điều đó khiến bạn va vào tường.
(thật ra tôi không hiểu ý của cái ví dụ này cho lắm, nguyên văn là: For instance, if your partner shoved you against the wall and you are discussing it later, they may twist the story in their favor. They may say you stumbled and they tried to steady you, which in turn caused you to fall into the wall.)

Khi những câu chuyện và ký ức liên tục bị kể lại theo hướng có lợi cho kẻ thao túng thì bạn sẽ bắt đầu nghi ngờ trí nhớ của mình về những điều đã xảy ra. Sự bối rối hay nghi ngờ bản thân này chính xác là mục tiêu của họ.

____________________________________

15 dấu hiệu của việc thao túng tâm lý.

Trở thành đối tượng của những kẻ thao túng tâm lý gây ra trạng thái lo âu và trầm cảm. Nó cũng có liên đới tới các cơn hoảng loạn và suy nhược thần kinh. Vì lẽ đó, ta cần nhận ra khi nào mình đang bị thao túng. Hãy tự hỏi bản thân xem liệu có xuất hiện bất cứ điều nào dưới đây không.

1. Bạn nghi ngờ thực tại và cảm xúc của bạn. Bạn cố thuyết phục bản thân rằng sự đối đãi mình nhận được không tệ đến thế hoặc rằng bản thân quá nhạy cảm.

2. Bạn tự vấn những nhận định và nhận thức của bản thân. Bạn sợ phải nói ra hay thể hiện cảm xúc của mình. Bạn học được một điều rằng chia sẻ ý kiến thường sẽ khiến bạn kiểu gì cũng tệ hơn. Vậy nên cứ im đi thì hơn.

3. Bạn cảm thấy dễ bị tổn thương và bất an. Bạn thường cảm thấy mình lúc nào cũng phải cẩn trọng, “nhìn trước ngó sau” khi ở cạnh kẻ thao túng. Bạn cũng cảm thấy như đang đứng trên bờ vực và thiếu đi lòng tự trọng.

4. Bạn cảm thấy cô đơn và vô lực. Bạn bị thuyết phục rằng mọi người quanh bạn nghĩ bạn là lập dị, điên khùng, hoặc bất ổn, như đúng nhận định của kẻ thao túng dành cho bạn. Điều này khiến bạn cảm thấy mình bị mắc kẹt và cô lập.

5. Bạn tự hỏi liệu mình có ngu hay bị điên không. Những lời nói của kẻ thao túng khiến bạn cảm thấy mình sai, không xứng, hay bị điên. Đôi khi bạn còn thấy mình lặp đi lặp lại những lời này với bản thân.

6. Bạn thất vọng về bản thân và chính con người bạn đã trở thành. Ví dụ, bạn cảm thấy như thể mình rất yếu đuối và thụ động và rằng bạn đã từng mạnh mẽ và quyết đoán hơn trong quá khứ.

7. Bạn cảm thấy bối rối. Hành vi của kẻ thao túng khiến bạn cảm thấy bối rối – với những hành động xuất hiện như trong tiểu thuyết ngắn “Dr. Jekyll và Mr. Hyde”.

8. Bạn lo là mình quá nhạy cảm. Kẻ thao túng coi nhẹ những hành vi hoặc lời nói gây tổn thương bằng những câu “Em chỉ đang đùa thôi mà” hay “Anh nhạy cảm quá rồi.”

9. Bạn cảm thấy bất hạnh như sắp ập đến. Bạn cảm thấy điều gì đó kinh khủng sắp xảy đến khi bạn ở cạnh kẻ thao túng. Điều này có thể bao gồm cảm giác bị đe dọa và cảm giác bất an như đang đứng trên bờ vực mà không rõ lý do.

10. Bạn dành nhiều thời gian để xin lỗi. Bạn cảm thấy cần phải lúc nào cũng xin lỗi cho những điều mình làm hoặc xin lỗi cho chính con người của mình.

11. Bạn cảm thấy mình không xứng. Bạn cảm thấy như thể mình chẳng bao giờ “đủ tốt”. Bạn cố sống sao để đáp ứng được kỳ vọng và yêu cầu của người khác, thậm chí ngay cả khi những điều này vô cùng phi lý.

12. Bạn tự nghi ngờ bản thân. Bạn thường xuyên tự hỏi không biết mình có nhớ chính xác những chi tiết trong câu chuyện đã diễn ra không. Bạn có thể còn ngừng cố gắng chia sẻ những gì bạn nhớ được vì sợ mình nhớ sai.

13. Bạn cho rằng những người khác thất vọng về bạn. Bạn lúc nào cũng xin lỗi vì những gì bạn làm hoặc bạn là ai, cho rằng mọi người thất vọng về bạn hoặc rằng bằng cách nào đó bạn đã gây ra lỗi lầm.

14. Bạn tự hỏi mình có gì sai không. Bạn tự vấn liệu có điều gì sai cơ bản về bản thân không. Nói cách khác, bạn lo là mình thực sự sẽ bị điên, mất trí hoặc “tiêu rồi.”

15. Bạn vất vả trong việc đưa ra quyết định vì không tin tưởng bản thân. Thay vào đó, bạn sẽ để kẻ thao túng ra quyết định thay bạn, hoặc tránh luôn việc đưa ra quyết định.

____________________________________

Kết luận.

Nếu bạn phát hiện ra bất kỳ dấu hiệu nào của hành vi thao túng tâm lý, bạn cần tìm kiếm hỗ trợ chuyên môn ngay lập tức. Nếu không được xử lý, thao túng tâm lý có thể bạn mất đi lòng tự trọng và phá hủy sức khỏe tinh thần của bạn. Bác sĩ có thể giới thiệu một tư vấn viên đủ năng lực để giúp bạn đối phó với những gì đang diễn ra.

Trong thời gian đó, hãy nhớ rằng bạn không có lỗi cho những gì mình đang phải trải qua. Kẻ thao túng tâm lý chọn lựa hành xử như vậy. Họ phải chịu trách nhiệm cho những gì họ làm. Bạn chẳng làm điều gì khiến họ lựa chọn như vậy và bạn không thể thay đổi những gì họ làm. Nhưng bằng các tư vấn, bạn có thể học cách đưa ra những lựa chọn lành mạnh và thiết lập ranh giới với những kẻ đang thao túng tâm lý.



____________________________________

Bài viết được dịch từ: https://www.verywellmind.com/is-someone-gaslighting-you-4147470

Tài liệu tham khảo:

https://homedialysis.org/news-and-research/blog/342-stop-medical-gaslighting-to-empower-your-patients

Breines J. Call me crazy: The subtle power of gaslighting. Berkeley Science Review. April 16, 2012.

Ahern K. Institutional betrayal and gaslighting: Why whistle-blowers are so traumatized. J Perinat Neonatal Nurs. 2018;32(1):59-65. doi:10.1097/JPN.0000000000000306

Thomas L. Gaslight and gaslighting. The Lancet Psychiatry. 2018;5(2):117-118. doi:10.1016/S2215-0366(18)30024-5

Điều gì sẽ xảy ra nếu một đột biến gen hiếm nào đó tạo ra một con sóc nọ sau khi ăn duy nhất một cái hạt dã tận hưởng cả...
11/08/2021

Điều gì sẽ xảy ra nếu một đột biến gen hiếm nào đó tạo ra một con sóc nọ sau khi ăn duy nhất một cái hạt dã tận hưởng cảm giác hạnh phúc thỏa mãn vĩnh viễn? Về lý thuyết thì điều này thật ra có thể làm được bằng cách kết nối lại bộ não của con sóc.

Ai mà biết được, có thể điều này thực sự đã xảy ra với một con sóc may mắn nào đó hàng triệu năm trước. Nhưng nếu như vậy, con sóc đó đã tận hưởng một cuộc đời cực kỳ hạnh phúc cũng như cực kỳ ngắn ngủi, và thế là chấm dứt sự đột biến hiếm có đó. Vì chú sóc sung sướng kia sẽ chẳng buồn cất công đi tìm thêm hạt nữa, chứ đừng nói đến bạn tình. Những con sóc đối thủ, năm phút sau khi ăn một cái hạt đã thấy, có cơ hội hơn hẳn để sinh tồn và truyền tiếp bộ gen của chúng đến thế hệ sau. Cũng chính vì lý do đó, những “hạt” mà con người chúng ta tìm cách thu lượm – những công việc béo bở, nhà lầu, bạn đời đẹp mã – hiếm khi khiến ta cảm thấy hạnh phúc lâu dài...

VẬY, HẠNH PHÚC LÀ GÌ?

Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc được định hình bởi cảm giác vui vẻ, hài lòng, thỏa mãn, và trọn vẹn... Mặc dù hạnh phúc có nhiều định nghĩa nhưng thường được mô tả là những cảm xúc tích cực và thái độ hài lòng với cuộc sống.

Hoặc chỉ đơn giản là khi ta rũ bỏ được những cảm giác khó chịu.

Khi hầu hết mọi người đều nói về hạnh phúc thì có lẽ họ đang nói về cảm xúc của họ ngay thời điểm hiện tại, hoặc có thể họ đang nói đến một cảm nhận tổng quan của họ về cuộc sống nói chung.

Vì hạnh phúc thường là một thuật ngữ có định nghĩa khá rộng nên các nhà tâm lý học và những nhà khoa học xã hội thường sử dụng thuật ngữ “Tình trạng khỏe mạnh mang tính chủ quan” khi nói về trạng thái tinh thần này. Đúng như từng từ, khỏe mạnh mang tính chủ quan thường tập trung vào cảm nhận chung của một cá nhân về cuộc sống hiện tại.

Có hai thành tố làm nên hạnh phúc - trạng thái khỏe mạnh mang tính chủ quan, bao gồm:

– Cân bằng cảm xúc: Tất cả mọi người đều trải nghiệm cảm xúc, cảm nhận, và tâm trạng tích cực cũng như tiêu cực. Hạnh phúc nói chung có liên quan đến việc trải nghiệm nhiều cảm xúc tích cực hơn cảm xúc tiêu cực.

– Hài lòng với cuộc sống: Điều này có liên quan đến mức độ hài lòng của bạn với nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống bao gồm các mối quan hệ, công việc, thành tựu, và những điều khác mà theo bạn là quan trọng.

_________________________

Làm sao để biết được mình có hạnh phúc hay không?

Mặc dù nhận thức về hạnh phúc có thể khác nhau tùy người, nhưng có một số dấu hiệu chủ đạo mà các nhà tâm lý học hay tìm kiếm khi đo lường và đánh giá hạnh phúc:

– Cảm thấy mình đang được sống cuộc sống mình mong muốn.

– Cảm thấy điều kiện cuộc sống đang rất tốt.

– Cảm thấy mình đạt được (hoặc sẽ đạt được) những điều mình theo đuổi.

– Cảm thấy hài lòng với cuộc sống.

– Cảm thấy tích cực hơn tiêu cực.

Một điều quan trọng cần ghi nhớ là hạnh phúc không phải một trạng thái hưng phấn liên tục. Thay vào đó, hạnh phúc là cảm nhận chung khi trải nghiệm nhiều cảm xúc tích cực hơn tiêu cực.

Những người hạnh phúc vẫn có hàng loạt các cảm xúc bình thường khác – giận dữ, phẫn nộ, chán chường, cô đơn và thậm chí buồn bã – theo từng thời điểm. Nhưng ngay cả khi đối mặt với sự khó chịu, họ vẫn có một niềm lạc quan ẩn giấu, họ tin rằng mọi chuyện sẽ tốt hơn, rằng họ có thể đối phó với những điều đang xảy ra, rồi họ cảm thấy hạnh phúc trở lại.

_________________________

Dạng thức của hạnh phúc.

Có nhiều cách suy nghĩ khác nhau về hạnh phúc. Ví dụ, triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle đã phân biệt hai kiểu hạnh phúc: Hạnh phúc khoái lạc (hedonia) và Hạnh phúc toàn vẹn (eudaimonia).

– Hạnh phúc khoái lạc: Xuất phát từ sự thỏa mãn. Thường được liên đới nhiều nhất khi con người ta làm những điều khiến họ cảm thấy vui, tự chăm sóc bản thân, hoàn thành được mong ước, trải nghiệm niềm vui, và cảm thấy thỏa mãn.

– Hạnh phúc toàn vẹn: Dạng hạnh phúc này khởi nguồn từ việc đi tìm đức hạnh và ý nghĩa cuộc sống. Những thành tố quan trọng của hạnh phúc toàn vẹn bao gồm cảm thấy cuộc sống mình có ý nghĩa, giá trị và mục đích. Nó có liên đới nhiều với việc hoàn thành được trách nhiệm, đầu tư vào những mục tiêu lâu dài, quan tâm đến phúc lợi của người khác và sống đúng với những lý tưởng của bản thân.

Hạnh phúc khoái lạc và Hạnh phúc toàn vẹn ngày nay thường được biết đến trong tâm lý học lần lượt là khoái cảm và ý nghĩa. Gần đây hơn, các nhà tâm lý học đã cho rằng thành tố thứ 3 được thêm vào có lẽ là sự gắn kết. Đây là cảm nhận về sự cam kết và tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống.

Nghiên cứu cho rằng người hạnh phúc nói chung có xu hướng đạt điểm hạnh phúc khoái lạc khá cao và điểm hạnh phúc toàn vẹn cao trên trung bình.

Tất cả những điều này có thể đóng một vai trò quan trọng trong trải nghiệm hạnh phúc chung, mặc dù giá trị tương đối của mỗi khía cạnh có thể khá chủ quan. Một số hoạt động có thể vừa mang tính khoái lạc vừa đem lại ý nghĩa, trong khi một số khác chỉ nghiêng về một phía.

Ví dụ, tình nguyện vì một lẽ sống nào đó mà bạn tin tưởng có thể mang nhiều ý nghĩa hơn là khoái lạc. Xem một chương tình TV yêu thích, mặt khác, lại có điểm số ý nghĩa thấp hơn và điểm khoái lạc cao hơn.

_________________________

Một vài dạng thức hạnh phúc khác có thể được phân vào 3 nhóm chính bao gồm:

– Niềm vui: Một cảm xúc khá tổng quát được chủ thể cảm nhận ngay trong khoảnh khắc hiện tại.

– Sự hứng khởi: Cảm giác vui vẻ khi con người ta hướng về một thứ gì đó với tâm thế tích cực.

– Lòng biết ơn: Một cảm xúc tích cực khi người ta thể hiện sự biết ơn và tri ân.

– Niềm tự hào: Sự củng cố niềm tin về ý nghĩa của bản thân thông qua những điều bạn đã đạt được.

– Sự lạc quan: Là một cách nhìn nhận cuộc sống bằng góc nhìn tích cực, vui vẻ.

– Hài lòng: Một dạng hạnh phúc có liên quan đến sự thỏa mãn.

_________________________

Thực hành hạnh phúc?

- Tiền bạc có lẽ không thể mua được hạnh phúc, nhưng có nghiên cứu chỉ ra rằng tiêu tiền vào những thứ như trải nghiệm có thể khiến bạn hạnh phúc hơn là dành tiền để sở hữu vật chất. Ví dụ, một nghiên cứu phát hiện ra rằng tiêu tiền vào những thứ tốn thời gian – như những dịch vụ tốn nhiều thời giờ – có thể làm tăng hạnh phúc và hài lòng hơn với cuộc sống.

– Tìm kiếm hỗ trợ từ xã hội. Hỗ trợ từ xã hội ở đây có nghĩa là có bạn bè và những người thân yêu mà bạn có thể tìm đến để được hỗ trợ. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hỗ trợ xã hội đóng một vai trò quan trọng trong sự khỏe mạnh mang tính chủ quan. Ví dụ, một nghiên cứu phát hiện ra rằng nhận thức về hỗ trợ xã hội chịu trách nhiệm 43% trong mức độ hạnh phúc của một người.
Điều quan trọng cần nhớ là khi nói đến hỗ trợ xã hội, chất lượng quan trọng hơn số lượng. Chỉ có một vài người bạn thân và người bạn mình tin tưởng sẽ có tác động lớn hơn lên niềm hạnh phúc nói chung thay vì có nhiều người quen biết thông thường.

– Đừng quá coi trọng hạnh phúc. Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người hay coi trọng hạnh phúc nhất cũng sẽ cảm thất ít hài lòng với cuộc sống nhất. Về cơ bản, hạnh phúc trở thành một mục tiêu cao ngất đến mức gần như không thể đạt được.
“Coi trọng hạnh phúc có thể khiến bạn tự đánh bại bản thân vì con người ta càng coi trọng hạnh phúc thì khả năng cao là họ lại càng bị thất vọng,” nhóm tác giả nghiên cứu chia sẻ.

_________________________

Tác động của hạnh phúc.

– Những cảm xúc tích cực tương quan với sức khỏe và tuổi thọ tốt hơn. Những trạng thái tinh thần vui vẻ có liên hệ mật thiết với sự gia tăng hệ miễn dịch. Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người có nhiều cảm xúc tích cực hơn tiêu cực thì sẽ có khả năng sống thọ hơn khoảng 13 năm. Đồng thời họ cũng cảm thấy hài lòng với cuộc sống của mình hơn.

– Cảm xúc tích cực làm gia tăng sức bật tinh thần. Sức bật tinh thần giúp con người ra giải quyết căng thẳng và hồi phục tốt hơn khi trở ngại xuất hiện. Ví dụ, một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng người hạnh phúc hơn thường có mức cortisol – hormone căng thẳng – thấp hơn và những lợi ích này có xu hướng tồn tại vững bền hơn theo thời gian.

– Những người ghi nhận có trạng thái sức khỏe và tinh thần tích cực thường có khả năng thực hành những hành vi lành mạnh hơn như ăn trái cây, rau củ và thường xuyên tập luyện thể dục thể thao.

KẾT: Hạnh phúc là một thuật ngữ rộng mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy vào mỗi người. Thay vì nhìn vào nó như một điểm kết thúc thì sẽ tốt hơn nếu bạn thực sự đi tìm xem hạnh phúc thực sự có ý nghĩa với bạn như thế nào và rồi từng bước một làm những điều nhỏ bé giúp bản thân hạnh phúc hơn.
Hãy xây dựng và vun trồng những mối quan hệ giúp mang đến cho bạn cảm giác hài lòng và toàn vẹn trong cuộc sống.


_________________________

Bài viết được dịch từ: https://www.verywellmind.com/what-is-happiness-4869755

Tài liệu tham khảo:

Homo Deus - Yuval Noah Harari.

Kringelbach ML, Berridge KC. The neuroscience of happiness and pleasure. Soc Res (New York). 2010;77(2):659-678.

Panel on Measuring Subjective Well-Being in a Policy-Relevant Framework; Committee on National Statistics; Division on Behavioral and Social Sciences and Education; National Research Council; Stone AA, Mackie C, editors. Subjective Well-Being: Measuring Happiness, Suffering, and Other Dimensions of Experience [Internet]. Washington (DC): National Academies Press (US). Published December 18, 2013.

Lee MA, Kawachi I. The keys to happiness: Associations between personal values regarding core life domains and happiness in South Korea. PLoS One. 2019;14(1):e0209821. doi:10.1371/journal.pone.0209821

Hsee CK, Zhang J, Cai CF, Zhang S. Overearning. Psychol Sci. 2013;24(6):852-9

Carstensen LL, Turan B, Scheibe S, et al. Emotional experience improves with age: evidence based on over 10 years of experience sampling. Psychol Aging. 2011;26(1):21‐33. doi:10.1037/a0021285

Steptoe A, Wardle J. Positive affect and biological function in everyday life. Neurobiol Aging. 2005;26 Suppl 1:108‐112. doi:10.1016/j.neurobiolaging.2005.08.016

Sapranaviciute-Zabazlajeva L, Luksiene D, Virviciute D, Bobak M, Tamosiunas A. Link between healthy lifestyle and psychological well-being in Lithuanian adults aged 45-72: a cross-sectional study. BMJ Open. 2017;7(4):e014240. doi:10.1136/bmjopen-2016-014240

Costanzo ES, Lutgendorf SK, Kohut ML, et al. Mood and cytokine response to influenza virus in older adults. J Gerontol A Biol Sci Med Sci. 2004;59(12):1328‐1333. doi:10.1093/gerona/59.12.1328

Lyubomirsky S, Sheldon KM, Schkade D. Pursuing happiness: The architecture of sustainable change. Review of General Psychology. 2005;9(2):111–131. doi:0.1037/1089-2680.9.2.111

Zhang Z, Chen W. A systematic review of the relationship between physical activity and happiness. J Happiness Stud 20, 1305–1322 (2019). https://doi.org/10.1007/s10902-018-9976-0

Cunha LF, Pellanda LC, Reppold CT. Positive psychology and gratitude interventions: a randomized clinical trial. Front Psychol. 2019;10:584. Published 2019 Mar 21. doi:10.3389/fpsyg.2019.00584

Ryff CD. Psychological well-being revisited: advances in the science and practice of eudaimonia. Psychother Psychosom. 2014;83(1):10‐28. doi:10.1159/000353263

Whillans AV, Dunn EW, Smeets P, Bekkers R, Norton MI. Buying time promotes happiness. Proc Natl Acad Sci U S A. 2017;114(32):8523‐8527. doi:10.1073/pnas.1706541114

Gulacti F. The effect of perceived social support on subjective well-being. Procedia – Social and Behavioral Sciences. 2010;2(2):3844-3849. doi:10.1016/j.sbspro.2010.03.602

Mauss IB, Tamir M, Anderson CL, Savino NS. Can seeking happiness make people unhappy? [corrected] Paradoxical effects of valuing happiness [published correction appears in Emotion. 2011 Aug;11(4):767]. Emotion. 2011;11(4):807‐815. doi:10.1037/a0022010

Address

Ho Chi Minh City

Telephone

+84937317281

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Địa Đàng Tâm Lý posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Địa Đàng Tâm Lý:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram

Category

Học Thuyết Hành Vi

𝑇ℎ𝑢𝑦𝑒̂́𝑡 ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖, ℎ𝑎𝑦 𝑐𝑜̀𝑛 đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 𝑔𝑜̣𝑖 𝑙𝑎̀ 𝑇𝑎̂𝑚 𝑙𝑦́ ℎ𝑜̣𝑐 ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖, 𝑙𝑎̀ 𝑚𝑜̣̂𝑡 ℎ𝑜̣𝑐 𝑡ℎ𝑢𝑦𝑒̂́𝑡 𝑣𝑒̂̀ ℎ𝑜̣𝑐 𝑡𝑎̣̂𝑝 𝑑𝑢̛̣𝑎 𝑡𝑟𝑒̂𝑛 𝑞𝑢𝑎𝑛 𝑛𝑖𝑒̣̂𝑚: 𝑡𝑎̂́𝑡 𝑐𝑎̉ 𝑐𝑎́𝑐 ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖 đ𝑒̂̀𝑢 𝑐𝑜́ 𝑡ℎ𝑒̂̉ đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 ℎ𝑜̣𝑐 𝑡𝑎̣̂𝑝 𝑘ℎ𝑖 𝑐𝑜́ đ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑘𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑡ℎ𝑖́𝑐ℎ ℎ𝑜̛̣𝑝 (đ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑘𝑖𝑒̣̂𝑛 ℎ𝑜́𝑎). Đ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑘𝑖𝑒̣̂𝑛 ℎ𝑜́𝑎 𝑥𝑢𝑎̂́𝑡 ℎ𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑡ℎ𝑜̂𝑛𝑔 𝑞𝑢𝑎 𝑐𝑎́𝑐 𝑡𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑡𝑎́𝑐 𝑐𝑢̉𝑎 đ𝑜̂́𝑖 𝑡𝑢̛𝑜̛̣𝑛𝑔 𝑣𝑜̛́𝑖 𝑚𝑜̂𝑖 𝑡𝑟𝑢̛𝑜̛̀𝑛𝑔. 𝐶𝑎́𝑐 𝑛ℎ𝑎̀ 𝑡𝑎̂𝑚 𝑙𝑦́ ℎ𝑜̣𝑐 ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖 𝑡𝑖𝑛 𝑟𝑎̆̀𝑛𝑔 𝑝ℎ𝑎̉𝑛 𝑢̛́𝑛𝑔 𝑐𝑢̉𝑎 𝑐𝑜𝑛 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 đ𝑜̂́𝑖 𝑣𝑜̛́𝑖 𝑘𝑖́𝑐ℎ 𝑡ℎ𝑖́𝑐ℎ 𝑡𝑢̛̀ 𝑚𝑜̂𝑖 𝑡𝑟𝑢̛𝑜̛̀𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑖́𝑛ℎ 𝑙𝑎̀ 𝑐𝑎́𝑖 𝑡𝑎̣𝑜 𝑛𝑒̂𝑛 ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖.

𝑇ℎ𝑒𝑜 đ𝑜́, ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖 𝑐𝑜́ 𝑡ℎ𝑒̂̉ đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 ℎ𝑜̣𝑐 𝑡𝑎̣̂𝑝 𝑚𝑜̣̂𝑡 𝑐𝑎́𝑐ℎ 𝑐𝑜́ ℎ𝑒̣̂ 𝑡ℎ𝑜̂́𝑛𝑔 𝑣𝑎̀ đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 𝑞𝑢𝑎𝑛 𝑠𝑎́𝑡 𝑚𝑜̣̂𝑡 𝑐𝑎́𝑐ℎ 𝑟𝑜̃ 𝑟𝑎̀𝑛𝑔 𝑡𝑢̛̀ 𝑏𝑒̂𝑛 𝑛𝑔𝑜𝑎̀𝑖, 𝑘ℎ𝑜̂𝑛𝑔 đ𝑖 𝑠𝑎̂𝑢 𝑣𝑎̀𝑜 𝑑𝑖𝑒̂̃𝑛 𝑏𝑖𝑒̂́𝑛 𝑡𝑎̂𝑚 𝑙𝑦́ 𝑛𝑜̣̂𝑖 𝑡𝑎̂𝑚.

𝑉𝑒̂̀ 𝑐𝑜̛ 𝑏𝑎̉𝑛, 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑡𝑎 𝑐ℎ𝑖̉ 𝑥𝑒́𝑡 đ𝑒̂́𝑛 𝑛ℎ𝑢̛̃𝑛𝑔 ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖 𝑞𝑢𝑎𝑛 𝑠𝑎́𝑡 đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 – 𝑐𝑜̀𝑛 𝑛ℎ𝑢̛̃𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑢̛́ 𝑛ℎ𝑢̛ 𝑛ℎ𝑎̣̂𝑛 𝑡ℎ𝑢̛́𝑐, 𝑐𝑎̉𝑚 𝑥𝑢́𝑐 𝑣𝑎̀ 𝑡𝑎̂𝑚 𝑡𝑟𝑎̣𝑛𝑔, đ𝑒̂̀𝑢 𝑘ℎ𝑜́ đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 𝑥𝑒𝑚 𝑥𝑒́𝑡.

𝑁ℎ𝑢̛̃𝑛𝑔 𝑛ℎ𝑎̀ 𝑡𝑎̂𝑚 𝑙𝑦́ ℎ𝑜̣𝑐 ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝑣𝑖 𝑡ℎ𝑢𝑎̂̀𝑛 𝑡𝑢́𝑦 𝑡𝑖𝑛 𝑟𝑎̆̀𝑛𝑔 𝑏𝑎̂́𝑡 𝑘𝑦̀ 𝑎𝑖 𝑐𝑢̃𝑛𝑔 𝑐𝑜́ 𝑘ℎ𝑎̉ 𝑛𝑎̆𝑛𝑔 đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 đ𝑎̀𝑜 𝑡𝑎̣𝑜 đ𝑒̂̉ 𝑡ℎ𝑢̛̣𝑐 ℎ𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑚𝑜̣̂𝑡 𝑐𝑜̂𝑛𝑔 𝑣𝑖𝑒̣̂𝑐 𝑛𝑎̀𝑜 đ𝑜́ 𝑑𝑢̀ 𝑛𝑒̂̀𝑛 𝑡𝑎̉𝑛𝑔 𝑑𝑖 𝑡𝑟𝑢𝑦𝑒̂̀𝑛, đ𝑎̣̆𝑐 𝑡𝑟𝑢̛𝑛𝑔 𝑡𝑖́𝑛ℎ 𝑐𝑎́𝑐ℎ 𝑣𝑎̀ 𝑛ℎ𝑢̛̃𝑛𝑔 𝑠𝑢𝑦 𝑛𝑔ℎ𝑖̃ 𝑛𝑜̣̂𝑖 𝑡𝑎̂𝑚 𝑐𝑜́ 𝑛ℎ𝑢̛ 𝑡ℎ𝑒̂́ 𝑛𝑎̀𝑜 𝑐ℎ𝑎̆𝑛𝑔 𝑛𝑢̛̃𝑎 (𝑡𝑎̂́𝑡 𝑛ℎ𝑖𝑒̂𝑛 𝑙𝑎̀ 𝑥𝑒́𝑡 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 đ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑘𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑡ℎ𝑒̂̉ 𝑐ℎ𝑎̂́𝑡 𝑡𝑜̂́𝑖 𝑡ℎ𝑖𝑒̂̉𝑢). 𝑌𝑒̂𝑢 𝑐𝑎̂̀𝑢 𝑑𝑢𝑦 𝑛ℎ𝑎̂́𝑡 𝑜̛̉ đ𝑎̂𝑦 𝑙𝑎̀ 𝑚𝑜̣̂𝑡 đ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑘𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑝ℎ𝑢̀ ℎ𝑜̛̣𝑝.