Đông y Tuệ Minh Đường

Đông y Tuệ Minh Đường TUỆ MINH ĐƯỜNG:
- Châm cứu kết hợp tập vận động trị liệu phục hồi sau ta
(1)

BỆNH HỌC: TOẠ CỐT PHONG HAY CÒN GỌI LÀ ĐAU THẦN KINH TOẠ...1. Nhận định bệnh lý (Đông y)Đau thần kinh tọa thường thuộc:T...
23/11/2025

BỆNH HỌC: TOẠ CỐT PHONG HAY CÒN GỌI LÀ ĐAU THẦN KINH TOẠ...
1. Nhận định bệnh lý (Đông y)
Đau thần kinh tọa thường thuộc:
Thấp – Hàn – Thấp Nhiệt tý (đau dọc mặt sau chân)
Khí trệ – Huyết ứ (đau dữ dội, cố định)
Thận hư – Can huyết hư (đau mạn, tê, yếu chân)
Kinh Bàng Quang – Kinh Đởm bị trở trệ theo đường đi của dây thần kinh
Đường đi đau: mông → mặt sau đùi → bắp chân → gót → lòng bàn chân → ngón út
→ chính là đường kinh Bàng Quang + nhánh kinh Đởm.

🌟 2. Ứng dụng Ngũ Du huyệt
A. HUYỆT HỢP – mạnh nhất trong đau lưng, đau chân
Hợp chủ trị “nghịch khí → giáng xuống”, rất hiệu quả trong đau thần kinh tọa.
1. UB40 – Uỷ Trung
Hợp của kinh Bàng Quang
→ Chủ trị “lưng đau, chân đau”, kinh đi qua hông – mông – chân
→ Đây là huyệt kinh điển cho đau thần kinh tọa.
2. GB34 – Dương Lăng Tuyền
Hợp của kinh Đởm
→ Trị đau mặt ngoài – sau chân, đau dạng co rút, tê chân.

B. HUYỆT KINH – trị đau dọc đường kinh
UB60 – côn Lôn
Kinh huyệt Bàng Quang
→ Giảm đau lưng dưới, hông, mặt sau chân.
GB38 – Dương Phụ
Kinh huyệt Đởm
→ Đau lan dọc mặt ngoài đùi – chân.

C. HUYỆT TĨNH – HUỲNH (trị cấp tính, đau dữ dội)
Dùng khi đau lan nhanh, nóng rát, viêm.
UB67 (Chí Âm) – Tỉnh
UB66 (Thông Cốc) – Huỳnh
→ Giảm đau tập trung vùng chi dưới theo đường Bàng Quang.

🌟 3. Ứng dụng Huyệt Khích (giảm đau cấp, đau nhói)
UB63 – Kim Môn → Khích của Bàng Quang
→ Đau cấp, đau lan mạnh xuống chân.
GB36 – Ngoại Khâu → Khích của Đởm
→ Đau kiểu kim châm, đau lan mặt ngoài chân.
KI5 – Thủy Tuyền → Khích của Thận
→ Đau do Thận hư gây yếu lưng – chân.

🌟 4. Ứng dụng Nguyên – Lạc
A. Kinh Bàng Quang
UB64 (Kinh Cốt – Nguyên)
UB58 (Phi Dương – Lạc về Thận)
→ Thông bế tắc vùng lưng – chân, tê lan bàn chân.
B. Kinh Đởm
GB40 (Khâu Khư – Nguyên)
GB37 (Quang Minh – Lạc về Can)
→ Đau mặt ngoài chân – hông.

🌟 5. Ứng dụng Du – Mộ (khi đau do tạng phủ suy)
A. Thận hư (đau mạn, tê, yếu chân, đau âm ỉ)
Thận Du (BL23)
Kinh Môn (GB25)
→ Bổ Thận – mạnh gân xương.
B. Bàng Quang bị thấp – hàn
Bàng Quang Du (BL28)
Trung Cực (CV3)
→ Thấp hàn – tê mông – đau lạnh chân.

🌟 6. Hệ thống huyệt Đổng Thị đặc hiệu đau thần kinh tọa
(Lý luận Đổng Thị, không mô tả kỹ thuật châm)
Hoạt Nhân
Thượng Tứ Hoành
Hạ Tứ Hoành
Tĩnh Huyệt
→ Đặc hiệu cho đau thắt lưng – thần kinh tọa.

🌟 7. Ứng dụng theo thể bệnh
A. Hàn Thấp tý (gặp lạnh đau tăng, nặng chân, khó cúi)
Huyệt tiêu biểu:
UB40, UB60
UB23
GB34
B. Thấp Nhiệt (đau nóng rát, tê buốt)
UB40
UB66, UB67
GB34, GB38
C. Huyết ứ – khí trệ (đau cố định, sắc tím)
UB63, GB36
UB57 (thư cân vùng bắp chân)
D. Thận hư – đau mạn, tái phát
BL23 + GB25
KI3 (Thái Khê)
KI10 (Âm Cốc)

🌟 8. Tóm tắt 10 huyệt hay dùng nhất cho đau thần kinh tọa
UB40 – chủ trị đau lưng – chân (huyệt chính)
UB57 – đau cẳng chân – gót
UB60 – đau dây thần kinh hông
GB34 – đau mặt ngoài chân – hông
GB30 (theo lý luận đường kinh vùng mông)
GB36 – đau cấp
UB63 – khích huyệt giảm đau nhanh
UB23 – thận hư đau mạn
GB37 – đau lan mặt ngoài chân
KI3 – bổ Thận, mạnh gân xương

DỤC VỌNG QUÁ ĐỘ – GỐC RỄ LÀM SUY TỔN DƯƠNG KHÍ VÀ NGŨ TẠNGTrong tự nhiên, các loài động vật chỉ giao phối theo chu kỳ si...
20/11/2025

DỤC VỌNG QUÁ ĐỘ – GỐC RỄ LÀM SUY TỔN DƯƠNG KHÍ VÀ NGŨ TẠNG
Trong tự nhiên, các loài động vật chỉ giao phối theo chu kỳ sinh sản, nhằm duy trì nòi giống. Quá trình này không chịu chi phối bởi ham muốn kéo dài hay kích thích nhân tạo.
Ở con người hiện đại, tác động của môi trường sống – tâm lý – truyền thông đã khiến dục vọng trở nên liên tục, thiếu tiết chế, vượt khỏi nhịp tự nhiên. Khi dục vọng không điều hòa, cơ thể phải tiêu hao Tinh – Khí – Thần quá mức.
Trong YHCT, trạng thái này gọi là:
“Dục hỏa thiêu thân”, “dục vọng bất tiết, thương Can – Tỳ – Thận”.
1. Vì sao dục vọng quá độ làm suy tổn Thận – Can – Tỳ?
1.1. Thương Thận – hao Tinh khí
Theo YHCT:
Thận tàng tinh, tinh sinh tủy, tủy thông lên não
Quan hệ tình dục hoặc kích thích dục vọng quá độ khiến Thận tinh hao tổn → Thận khí suy.
Biểu hiện:
Đau lưng, mỏi gối
Chóng mặt, giảm trí nhớ
Mất ngủ, tinh thần kém
Nam: di tinh, xuất tinh sớm, liệt dương
Nữ: kinh nguyệt rối loạn, mệt mỏi, hàn lạnh bụng dưới
Hao Thận là gốc của “dương khí bất túc”.
1.2. Ảnh hưởng đến Can – khí uất và hỏa vượng
Can chủ sơ tiết, điều đạt khí toàn thân.
Dục vọng kích thích kéo dài khiến Can khí hoạt động quá mức, dễ dẫn đến:
Can khí uất → dễ cáu gắt, stress, tinh thần bất ổn.
Can hỏa vượng → miệng đắng, mất ngủ, nhiệt nội sinh.

1.3. Suy tổn Tỳ – sinh thấp, trệ khí
Tỳ chủ vận hóa thủy cốc. Khi tinh khí suy và tâm – can mất điều đạt, Tỳ dễ bị ảnh hưởng:
Ăn kém, đầy bụng
Tỳ dương hư → sinh thấp, dễ béo bụng
Mệt mỏi kéo dài, thân thể “nặng nề”
Khí huyết vận hành kém → toàn thân nhược mệt

2. Cơ chế tổng quát theo YHCT
Dục vọng quá độ → hao Thận tinh
→ Can mất sơ tiết → khí uất – hóa hỏa
→ Tỳ vận hóa kém → sinh thấp – khí hư – dương suy
Hệ quả là suy nhược toàn thân, tinh thần kém minh mẫn.

3. Vì sao người hiện đại dễ “quá độ”?
✔ Môi trường kích thích liên tục
Hình ảnh gợi dục, phim ảnh, mạng xã hội khiến não bộ thường xuyên tiếp nhận tín hiệu kích thích dục tính → dục hỏa dễ bốc.
✔ Căng thẳng – dùng tình dục để giải tỏa
Stress, cô đơn, áp lực công việc làm nhiều người tìm đến khoái cảm như cách “giảm tải tâm lý”, dễ thành lệ thuộc.
✔ Lối sống thất điều
Thức khuya, ăn uống bất thường, ít vận động → Tinh khí vốn đã suy, càng dễ mất cân bằng dục vọng.

4. Tác hại lâu dài nếu không điều tiết dục vọng
4.1. Hao Thận – giảm sinh lực
Lạnh tay chân
Lưng gối yếu
Giảm ham muốn thật
Lão hóa nhanh, cơ teo, da xám
4.2. Rối loạn Tâm – Can – Tỳ
Mất ngủ, dễ lo âu
Tinh thần uể oải
Stress, dễ cáu gắt
Mệt mỏi kéo dài
4.3. Suy giảm miễn dịch
Tinh hư → huyết yếu → vệ khí giảm → dễ nhiễm bệnh.
4.4. Ảnh hưởng quan hệ vợ chồng
Ham muốn nhiều nhưng thực lực yếu → tự ti, xung đột, áp lực tâm lý.

5. Điều chỉnh – Giữ dục vọng ở mức điều hòa
(1) Bổ Thận – ôn dương
Cháo mè đen – đậu đen – gạo lứt
Trà gừng – quế – kỷ tử
Chườm ấm vùng rốn và thắt lưng

(2) Sơ Can – an thần
Nước lá vối, trà xanh, rau má, bồ công anh
Thiền – thở dài 10 phút mỗi sáng
Ngủ trước giờ Tý (23h)

(3) Kiện Tỳ – hóa thấp
Dùng gừng, hành, tía tô
Hạn chế thực phẩm lạnh, nước đá, đồ ngọt
Xoa bụng theo chiều kim đồng hồ

(4) Giảm kích thích ngoại cảnh
Hạn chế xem nội dung gợi dục
Giảm thời gian mạng xã hội
Đặt khoảng thời gian “nghỉ dopamine”

(5) Nguyên tắc kiêng kỵ theo Đông y
Không quan hệ khi:
Cơ thể đang ốm
Sau uống rượu nhiều
Sau vận động nặng
Sau 23h (giờ Thận chủ khí)
Khi cơ thể lạnh, tay chân lạnh
Tần suất:
Điều độ theo sức khỏe từng người.
Nguyên tắc:
“Tinh đầy thì tự khởi, mệt thì dừng.”

6. Kết luận – Giữ Tinh, dưỡng Khí, an Thần
Cổ nhân dạy:
“Tiết dục không phải cấm dục, mà là điều dục.”
Khi Tinh – Khí – Thần vững vàng,
Can – Thận – Tỳ được nuôi dưỡng đầy đủ,
tâm thần ổn định, khí huyết sung mãn,
thì cơ thể tự nhiên khỏe mạnh và tinh thần sáng suốt.

NGŨ TẠNG - NGŨ KHÍ - NGŨ VỊ TRONG QUAN  NIỆM Ý HỌC CỔ TRUYỀN.1. Sự quy nạp của Ngũ vị vào Ngũ tạngTheo lý luận Ngũ hành ...
20/11/2025

NGŨ TẠNG - NGŨ KHÍ - NGŨ VỊ TRONG QUAN NIỆM Ý HỌC CỔ TRUYỀN.

1. Sự quy nạp của Ngũ vị vào Ngũ tạng
Theo lý luận Ngũ hành – Ngũ vị trong YHCT, mỗi vị của thức ăn khi nhập vào cơ thể sẽ có xu hướng tác động nổi trội lên một tạng nhất định:
- Vị chua (Toan) quy vào Can
- Vị cay (Tân) quy vào Phế
- Vị đắng (Khổ) quy vào Tâm
- Vị mặn (Hàm) quy vào Thận
- Vị ngọt (Cam) quy vào Tỳ

♻️ Trong sinh lý tự nhiên:
Trẻ nhỏ lấy trọng điểm ở Tỳ vị, cần vận hoá mạnh để sinh trưởng nên thường ưa ngọt.

Người cao tuổi Thận khí suy dần, nên dễ thiên hướng khẩu vị mặn.

💢 Trong quan sát tính – khí:
Người vội vã, hấp tấp, tinh thần hay cấp bách: nên dùng vị chát cho tính thu liễm.

Người nóng nảy, dễ bộc phát: vị chua giúp thu liễm Can.

Người trầm lắng, chậm chạp, hay hàn lạnh: vị cay trợ Phế, giúp tán hàn.

Người bừng bừng, dễ tăng huyết áp, khí nhiệt thịnh: vị đắng thanh tâm, giáng hoả.

Người gầy yếu, da thịt khô suy: vị ngọt bổ trung, hoà hoãn.

✍️Tuy nhiên, YHCT nhấn mạnh nguyên tắc:
“Đa tắc vi hại” – Dù tạng cần vị đó nhưng quá độ sẽ gây thương tổn:

Nhiều vị mặn hại Thận,

Nhiều vị ngọt tổn Tỳ,

Các vị khác cũng vậy, đều phải dùng điều độ để điều hoà khí hoá.

2. Ngũ khí gây bệnh theo quan điểm YHCT
Mỗi tạng có khí hoá riêng; khi mất điều hoà sẽ phát sinh những biểu hiện đặc trưng:
- Tâm hệ (Tâm – Tiểu trường)
- Khí Tâm nghịch gây chứng nấc, đau ngực, tâm hoả vượng dễ động huyết.
- Phế hệ (Phế – Đại trường)
- Phế khí uất hoặc nghịch khiến ho, khái thấu, khí đạo bất thông.
- Can hệ (Can – Đởm)
- Can khí uất, Can hoả bốc gây giận dữ, nói nhiều, khí muốn phát tiết ra ngoài.
- Đởm khí thịnh gây nộ, cảm xúc bộc phát quá mức.
- Tỳ hệ (Tỳ – Vị)
- Tỳ khí hư làm nhiều nước bọt, đêm chảy dãi; nặng thì không tự nhiếp được.
- Vị khí nghịch gây ợ hơi, nôn ọe, kèm cảm giác khủng/sợ theo quan niệm cổ truyền.
- Thận hệ (Thận – Bàng quang)
- Thận khí hư gây thường vươn vai, hắt hơi, khí không nạp được.
- Trường hợp nặng, Thận khí suy không thu nạp, hơi thở nghịch lên, dân gian ví như “cười sặc”.
- Bàng quang khí hoá bất lợi gây:
+ Long: tiểu tiện bí, đau
+ Bất cước: tiểu tiện không tự chủ
+ Di niệu / đái rắt: són, nhỏ giọt

🎯 Kết luận theo tinh thần YHCT
Những biểu hiện trên là cách YHCT lý giải hoạt động khí hoá của Ngũ tạng (Tâm – Can – Tỳ – Phế – Thận) tương ứng với Ngũ hành (Hỏa – Mộc – Thổ – Kim – Thủy).

Nhiều trạng thái cơ thể mà xét nghiệm hiện đại không phát hiện bất thường, YHCT lại nhìn nhận qua lăng kính khí huyết – âm dương – tạng phủ để biện chứng luận trị. Đây là hệ thống lý luận truyền thống, hướng tới điều hòa cơ thể

HAI CHỮ "LƯƠNG Y" CÓ ĐANG BỊ LỢI DỤNG?!1. Khi làm thầy thuốc là… bước vào đạoNgày xưa, để tìm được một vị thầy thuốc châ...
14/11/2025

HAI CHỮ "LƯƠNG Y" CÓ ĐANG BỊ LỢI DỤNG?!
1. Khi làm thầy thuốc là… bước vào đạo
Ngày xưa, để tìm được một vị thầy thuốc chân chính là chuyện vô cùng khó.
Không phải cứ biết vài bài thuốc, thuộc vài đường kinh lạc là được gọi là “thầy”.
Người xưa quan niệm: nghề y là đạo, không chỉ là một nghề để kiếm sống.
Vì vậy, một người muốn được truyền nghề phải qua rất nhiều thử thách, nhất là về nhân cách:
Có nhân đức hay không?
Có thực sự vì y đạo, vì người bệnh mà học nghề hay không?
Có đủ kiên nhẫn, chấp nhận học từng chút một, từ những việc nhỏ nhất?
Có chịu được khổ cực, thức khuya dậy sớm, theo thầy đi khám, đi cứu người?
Một bài thuốc hay, một thủ pháp châm cứu, một bí quyết trị bệnh… không bao giờ được trao tay chỉ sau vài buổi học.
Thầy phải quan sát học trò nhiều năm, xem tâm – tầm – tính của người đó ra sao. Có khi theo thầy 5–7 năm vẫn chưa được dạy đến phần “cốt tủy”.
Bởi vì, mạng sống con người đặt trong tay, chỉ một quyết định sai là có thể hại người.
Cho nên, “lương y” thời đó không phải là danh xưng, mà là một lời chứng về nhân phẩm và đạo đức.

2. Thời nay: vài chiêu lượm lặt là thành… “thầy”?
Bối cảnh xã hội bây giờ đã khác rất xa.
Thông tin y tế, đặc biệt là Y học cổ truyền (YHCT), có thể tìm thấy đầy rẫy trên mạng:
Video bấm huyệt,
Clip “nắn chỉnh xương khớp”,
Các khóa học “cầm tay chỉ việc 3 ngày”,
Khóa online “học châm cứu cấp tốc”, “tự học trị liệu không cần bằng cấp”…
YHCT lại thường bị hiểu lầm là:
“Không cần thi đại học, không cần vào trường y, chỉ cần có ‘tay nghề’ là làm được.”
Thế là:
Xem vài video,
Học lóm vài bài bấm huyệt,
Đi 1–2 khóa ngắn ngày…
là đã có thể treo bảng:
“Thầy trị liệu”, “Thầy chỉnh hình”, “Thầy châm cứu”, “Chuyên gia năng lượng”, “Chuyên gia giải nén cột sống”…
Chỉ cần thêm một chút ngôn từ tâm linh hóa, năng lượng hóa, trường khí hóa, vài câu quảng cáo “trị khỏi vô số bệnh”, là đủ để nhiều người tin tưởng.
Và đau nhất là: rất nhiều người tin thật.

3. Vì sao người bệnh lại dễ tin đến vậy?
Không thể chỉ trách người “tự phong thầy”, mà phải nhìn rộng hơn: vì sao xã hội tạo điều kiện cho họ tồn tại?
3.1. Y học cổ truyền bị “bình dân hóa” quá mức
YHCT vốn là một hệ thống lý luận sâu sắc:
Tạng phủ – kinh lạc
Tứ chẩn – bát cương
Biện chứng luận trị
Lý – pháp – phương – dược
Nhưng trong mắt nhiều người, YHCT chỉ còn lại:
“Bấm huyệt cho đỡ đau”
“Nắn lưng nghe rắc một cái là hết”
“Cạo gió, giác hơi, đắp thuốc”
Một kho tàng tri thức mấy nghìn năm bị thu nhỏ lại thành vài chiêu mẹo giảm đau tạm thời.
Đó là một sự giản lược nguy hiểm.

3.2. Nhu cầu khám chữa bệnh lớn, hệ thống chính thống quá tải
Khi người bệnh:
Đau quá, chờ lâu,
Thủ tục phức tạp,
Xếp hàng mệt mỏi, thì họ có xu hướng tìm đến nơi nào nhanh nhất, ai hứa giúp trước thì tin trước.
Chỉ cần có người nói:
“Để tôi bấm cho vài cái là đỡ, không cần thuốc, không cần mổ.”
là rất nhiều bệnh nhân sẵn sàng thử, đặc biệt là người lớn tuổi, người thu nhập thấp, người sợ bệnh viện.

3.3. Tâm lý “thích phép màu” và “thích nghe lời ngọt”
Nhiều “thầy” đánh đúng tâm lý người bệnh:
Nói năng trơn tru, tự tin.
Khoe vài ca “khỏi bệnh thần kỳ”.
Pha thêm chút thần bí, nhân điện, năng lượng vũ trụ, khai mở luân xa…
Lời nói thì đầy từ bi, yêu thương, chữa lành, nhưng phía sau là thu phí cao chót vót.
Trong khi đó, thầy thuốc chính thống nói thẳng:
Bệnh này cần thời gian,
Cần tuân thủ phác đồ,
Có nguy cơ, có biến chứng,
Cần xét nghiệm, cần chẩn đoán hình ảnh…
Người bệnh thường không thích nghe sự thật phức tạp, mà dễ bị hút bởi lời hứa đơn giản, nghe “mát ruột”.

4. Hậu quả khi “ai cũng có thể làm thầy”
Vấn đề không chỉ là “đỡ đau được hay không”, mà là nguy cơ bị che khuất:
Một động tác nắn sai có thể làm tổn thương rễ thần kinh, liệt chi, thoát vị nặng thêm.
Một kim châm sai vị trí có thể gây tràn khí màng phổi, tụ máu, tổn thương nội tạng.
Một bài thuốc bốc sai có thể gây ngộ độc gan – thận, suy tạng, dị ứng phản vệ.
Một ca xử lý sai có thể để lại di chứng cả đời.
Điều đáng sợ hơn là:
Khi xảy ra biến chứng, phần lớn những “thầy” này không biết cấp cứu,
Không biết nhận diện dấu hiệu nguy hiểm,
Không biết khi nào phải chuyển tuyến,
và đôi khi còn trốn tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho “căn duyên”, “nghiệp bệnh”, “cơ thể bệnh nhân yếu”.
Ở đây, không chỉ là chuyện tay nghề, mà là chuyện đạo đức và trách nhiệm.

5. Vậy “lương y” thực sự là ai?
“Lương y” không phải là người:
Nắn nghe “rắc rắc” cho đã,
Bấm cho bệnh nhân kêu “đã quá thầy ơi”,
hay chỉ cần “làm cho đỡ đau ngay lập tức”.
Lương y đúng nghĩa là người:
Được đào tạo bài bản
Có nền tảng giải phẫu, sinh lý, bệnh học.
Hiểu rõ cấu trúc cơ thể, đường đi của thần kinh – mạch máu.
Biết nguyên tắc an toàn và chỉ định – chống chỉ định.
Thấu hiểu cơ thể – thấu hiểu giới hạn của mình
Biết khi nào có thể điều trị,
Khi nào phải phối hợp chuyên khoa khác,
Khi nào phải ngừng can thiệp và chuyển ngay đến bệnh viện.
Xử trí được biến chứng cơ bản
Nhận diện sốc phản vệ, tràn khí màng phổi, tụ máu lớn, ngất do châm…
Biết sơ cứu ban đầu, gọi hỗ trợ, không chần chừ.
Có đạo đức nghề nghiệp
Không “nổ” quá khả năng,
Không quảng cáo quá sự thật,
Không đánh vào nỗi sợ, nỗi tuyệt vọng của người bệnh.
Đặt sinh mạng bệnh nhân lên trên lợi ích bản thân
Dám nói “tôi không làm được ca này, xin gửi anh/chị đến nơi phù hợp hơn”.
Dám từ chối những chỉ định nguy hiểm chỉ để kiếm thêm tiền.
Người xưa chọn trò kỹ không phải để giữ bí truyền cho riêng mình, mà để giữ cho hai chữ “lương y” không bị hoen ố.

6. Hai chữ “lương y” đang bị lợi dụng như thế nào?
Ngày nay, không khó để thấy:
Bảng hiệu “Phòng khám gia truyền”, “Lương y chữa bệnh không dùng thuốc”, “Thần y chỉnh cột sống”… mọc lên ở khắp nơi.
Nhiều người tự xưng “Lương y”, “Bác sĩ danh dự”, “Giáo sư năng lượng”, trong khi:
Không có chứng chỉ hành nghề,
Không qua bất kỳ chương trình đào tạo chính quy nào,
Không chịu sự giám sát chuyên môn.
Hai chữ “lương y” vốn gắn với hình ảnh:
“Lương y như từ mẫu”
– thầy thuốc như người mẹ hiền, vừa có y thuật, vừa có lòng nhân.
Nhưng trong tay một số người, “lương y” bị biến thành:
Thương hiệu để marketing,
Lá bùa để tạo niềm tin,
Tấm áo choàng đạo đức để che đi thiếu sót chuyên môn.
Khi quá nhiều người tự phong là lương y, mà hành nghề không đúng chuẩn, thì:
Niềm tin của xã hội vào YHCT bị suy giảm.
Những thầy thuốc chân chính bị “vạ lây”.
Bệnh nhân không còn phân biệt được đâu là thầy thật, đâu là thầy giả.
Đó chính là sự lợi dụng hai chữ “lương y” – lợi dụng niềm tin, lịch sử và giá trị đạo đức gắn với danh xưng ấy.

7. Chúng ta có thể làm gì?
7.1. Với người bệnh và gia đình
Trước khi gửi sức khỏe của mình cho bất kỳ ai, hãy tự hỏi ít nhất:
Người này có chứng chỉ hành nghề hay không?
Được đào tạo ở đâu, có qua trường lớp chính quy không?
Họ giải thích bệnh rõ ràng hay chỉ nói chung chung, thần bí?
Họ có dám nói “tôi chỉ hỗ trợ một phần, vẫn cần đi khám bác sĩ” không?
Khi hỏi về nguy cơ, biến chứng, họ trả lời thế nào:
Nói rõ ràng, hay
Phủi tay: “Yên tâm, không bao giờ có biến chứng gì đâu!”?
Niềm tin là cần, nhưng niềm tin phải dựa trên hiểu biết, không chỉ dựa vào lời quảng cáo.
7.2. Với người đang thực sự hành nghề y
Đừng im lặng trước những hành vi lợi dụng danh xưng “lương y”.
Cùng nhau:
Xây dựng chuẩn đạo đức rõ ràng,
Nâng cao chuẩn đào tạo và thực hành,
Thẳng thắn phân biệt giữa người có chuyên môn và người tự phong.
Khi cần, hãy lên tiếng bảo vệ:
Người bệnh – để họ không bị lợi dụng.
Giá trị của nghề y – để hai chữ “lương y” không bị rẻ rúng.
7.3. Với cơ quan quản lý và tổ chức nghề nghiệp
Siết chặt việc:
Cấp chứng chỉ hành nghề,
Thanh tra, kiểm tra dịch vụ khám chữa bệnh bằng YHCT,
Quảng cáo trên mạng và tại cơ sở.
Hỗ trợ truyền thông để người dân:
Hiểu đúng về YHCT,
Biết cách chọn cơ sở uy tín,
Biết phân biệt dịch vụ chăm sóc sức khỏe – thư giãn với hoạt động khám chữa bệnh thật sự.

8. Lời kết: Đừng để “lương y” trở thành… khẩu hiệu
Thời buổi này, ai cũng có thể “làm thầy” – đó là một thực trạng đáng lo, không phải lời khen.
Sức khỏe và mạng sống không thể thử – sai – rồi làm lại như một món hàng.
Cây kim sai còn mua cây kim khác,
Cái áo rách còn may lại được,
Nhưng một biến chứng nặng có thể đổi bằng cả phần đời còn lại – hoặc bằng chính mạng sống.
Vì thế:
Nếu bạn là người bệnh: hãy gửi sức khỏe của mình đúng nơi, đúng người.
Nếu bạn là người thầy thuốc: hãy giữ lấy cho mình tấm lòng và danh dự tương xứng với hai chữ “lương y”.
Đừng để “lương y” chỉ còn là một tấm biển treo trước cửa,
mà hãy giữ nó như lời thề sống chết với nghề và với người bệnh.

Cứ đeo đuổi ước mơ của bạn, biến công việc thành niềm vui, làm cho bản thân tiến bộ hơn mỗi ngày. Danh phận, chức tước c...
03/11/2025

Cứ đeo đuổi ước mơ của bạn, biến công việc thành niềm vui, làm cho bản thân tiến bộ hơn mỗi ngày. Danh phận, chức tước chỉ nên là phần thưởng thay vì là đích đến. Vui vẻ sống tốt mỗi ngày mới là toàn bộ cuộc sống... lethanhminh.tony

03/11/2025

lethanhminh.tony

MỐI TƯƠNG ĐỒNG GIỮA PHÚC CHÂM VÀ LIỆU PHÁP ĐIỀU CHỈNH CÂN MẠC (FASCIAL MANIPULATION)Trong quá trình nghiên cứu và thực h...
03/11/2025

MỐI TƯƠNG ĐỒNG GIỮA PHÚC CHÂM VÀ LIỆU PHÁP ĐIỀU CHỈNH CÂN MẠC (FASCIAL MANIPULATION)

Trong quá trình nghiên cứu và thực hành lâm sàng, tôi tình cờ tiếp cận “Đồ hình Phúc Châm” – một hệ thống châm cứu đặc thù trong Y học cổ truyền, chú trọng đến tác động phản chiếu vùng bụng (phúc) nhằm điều hòa toàn thân.

Điều đặc biệt là, khi đối chiếu với nguyên lý của Fascial Manipulation (FM) – một phương pháp điều trị hiện đại tập trung vào chuỗi liên kết của hệ thống cân mạc, tôi nhận thấy có sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa hai hệ thống tưởng chừng khác biệt này.
1. Mối liên hệ giữa huyệt vị và điểm điều khiển trong FM
Trong Phúc Châm, mỗi huyệt vị trên vùng bụng phản ánh và chi phối một phần chức năng nhất định của tạng phủ, kinh lạc.
Tương tự, trong Fascial Manipulation, mỗi Center of Coordination (CC) hay Center of Fusion (CF) lại đại diện cho những điểm điều phối vận động của chuỗi cân mạc.

Cả hai đều dựa trên nguyên lý toàn thể:

> “Một điểm mất cân bằng có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống.”<

Khi cân mạc bị co rút, tắc nghẽn hoặc rối loạn, cơ thể biểu hiện qua đau, hạn chế vận động, rối loạn chức năng cơ – khớp; điều này rất gần với khái niệm khí trệ, huyết ứ, kinh lạc bất thông trong YHCT.

2. Nguyên lý chuỗi liên kết và điều hòa toàn thân
Cả Phúc Châm và FM đều không chỉ tác động cục bộ, mà hướng đến việc phục hồi sự điều hòa toàn thân, thông qua việc giải phóng tắc nghẽn, khôi phục lưu thông – dù là “khí huyết” trong YHCT hay “mạng lưới cân mạc” trong sinh học hiện đại.

Chính nguyên lý này giúp Fascial Manipulation có thể lý giải cơ chế tác dụng của nhiều phương pháp trị liệu khác nhau, trong đó có châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, thủy châm, và nhiều kỹ thuật vật lý trị liệu khác.

3. Sự gặp gỡ giữa Đông và Tây
Có thể nói, Fascial Manipulation chính là ngôn ngữ khoa học hiện đại diễn giải lại trực giác lâm sàng của Phúc Châm học cổ truyền.
Đây là minh chứng rõ ràng cho sự hội tụ giữa khoa học thực chứng phương Tây và học thuyết khí – huyết – tạng phủ – kinh lạc phương Đông, cùng hướng đến mục tiêu tối hậu:
> “Khôi phục sự cân bằng và hài hòa trong cơ thể con người.”<

✍️ Kết luận:
Phúc Châm không chỉ là một phương pháp châm cứu đặc biệt, mà còn chứa đựng nhiều nguyên lý sinh học sâu sắc, phù hợp với các phát hiện mới về hệ thống cân mạc. Việc kết hợp giữa Phúc Châm và Fascial Manipulation mở ra hướng đi mới cho y học tích hợp – nơi tinh hoa cổ truyền được soi sáng bằng tri thức hiện đại.

Address

19/1B Đường 49 KP6 Hiệp Bình Chánh Thủ Đức
Tphcm

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Đông y Tuệ Minh Đường posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Đông y Tuệ Minh Đường:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram