21/08/2025
Tìm hiểu tên của 12 loại Cô Hồn (THẬP NHỊ LOẠI CÔ HỒN: 十二類孤魂 )
Tháng 7 là tháng mọi người nghĩ về người đã khuất...
"Khi sống chẳng ai ngó ngàng,
Đến khi thác rồl muôn vàng khói nhang"
Mười hai loại cô hồn gồm có:
1. Lụy triều đế chúa (累朝帝主) các vua chết vì phản loạn, tai nạn đổi đời. Hay còn gọi là “Tiền vương hậu bá chi lưu (前王後覇支流)”, là những vị vua chúa các triều đại chết do chinh biến, soán chủ thay ngôi. Đó là những vị vua đang trong cảnh thái bình nhưng bỗng chốc chiến hạm kéo đến, binh mã dấy lên và thế là cơ nghiệp nát tan. Các vị này mất đi thành cô hồn với oán hận ngút ngàn.
2. Quan tướng vương triều và Oai tướng phản thần; (官將王朝 - 威將反臣) Hay còn gọi là “Anh hùng tướng soái chi lưu (英雄將帥支流)”. Những tướng lĩnh anh hùng cái thế, lừng lẫy một thời, xông pha trận mạc, vào sinh ra tử nhưng rồi tử trận, máu nhuộm sa trường, thây phơi đồng nội.
3. Bá quận danh thần; (百名臣) Hay còn gọi là “Văn thần tể phụ chi lưu (文臣宰輔支流)”. Các quan chức hành chánh huyện phủ, học hành đỗ đạt nhưng phụng mệnh phải nhậm chức xa nhà, chết nơi quê người đất khách.
4. Bạch ốc thư sinh; (白屋書生) Hay còn gọi là “Văn nhơn cử tử chi lưu (文人舉子支流)”, đây là loại cô hồn thứ tư. Các hàng sĩ tử sinh viên học sinh dẫu học hành nhiều, đêm ngày đèn sách nhưng khi công chưa thành, danh chưa toại nửa chừng đã yểu mạng.
5. Xuất trần thượng sĩ; (出塵上士 Tức là hàng tu sĩ chỉ nói suông lời Phật dạy, không thực hành pháp và còn bị vướng mắc một cái gì đó). Hay còn gọi là “Ty y Thích tử chi lưu (缌衣釋子支流)”. Một số vị Tăng sĩ, tuy ban đầu có chí xuất trần nhưng không đạt được mục đích của đời sống xuất gia. Chỉ đàm luận suông triết lý nhà Phật mà ít dụng công thực hành, không buông xả lại còn bám víu nên chẳng được siêu thoát.
6. Huyền môn đạo sĩ; (玄門道士) Đây là những người luyện linh đơn, tiên đoán cát hung, thiên văn địa lý, đoán mệnh cho người mà mệnh mình mờ mịt nên khi chết vẫn bị đọa lạc.
7. Thương gia lữ khách và kẻ buôn tảo bán tần; (商家旅客 - 𧶭藻𧸝蘋) Các thương gia xuôi ngược buôn bán rồi bỏ mạng trên đường kinh thương, không ít người trải qua bao bất trắc trên đường thủy, đường bộ.
8. Chiến sĩ trận vong; (戰士陣亡) Đến loại thứ tám là cô hồn “Trận vong binh tốt chi lưu (陣亡兵卒支流)” tức những binh sĩ tử nạn trong chiến tranh. Trong vòng binh lửa, bom đạn tơi bời, mạng người như cỏ rác, máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát.
9. Sản phụ bất hạnh (產婦不幸 lúc thai sản mất cả mẹ lẫn con). Cô hồn thứ chín là “Huyết hồ sản nạn chi lưu (血湖產難支流)”. Đó là những sản phụ và con chết trong khi vượt cạn. Sanh nở là thời khắc đau đớn và nguy hiểm, một số trường hợp gặp nạn dẫn đến tử vong.
10. Khuyết tật thiếu tu; Thứ mười là loại cô hồn “Sân ngoan bội nghịch chi lưu (侁忨背逆支流)” tức những người bị báo chướng sanh nơi biên địa, đui điếc câm ngọng, chết vì tai nạn lao động, ghen tuông hay bị đầu độc. Bởi kiếp trước họ không tu hành, khinh khi Tam bảo, ngỗ nghịch đối với cha mẹ, tạo nhiều tội nghịch nên nay phải trả quả báo.
11. Cung phi mỹ nữ và hạng buôn hương bán phấn; (宮妃美女 - 項𧶭香𧸝粉) Loại cô hồn thứ mười một là “Quần thoa phụ nữ chi lưu (裙釵婦女支流)”. Những cung phi mỹ nữ, hàng khuê các giai nhân, các mệnh phụ phu nhân gặp lúc thất thế lâm vào khốn cùng, chết thảm.
12. Tù nhân tử tội; (囚人死罪) Cuối cùng là loại cô hồn “Thương vong hoạnh tử chi lưu (傷亡橫死支流)”, tức những hành khất, các tử tội, những kẻ chết do tai nạn nước, lửa, bị thú dữ ăn thịt và những người chết bất đắc kỳ tử do vô số tai nạn khác như thiên tai, dịch bệnh, tai nạn giao thông…
Ngoài ra, còn phải kể đến kẻ chìm sông lạc suối, kẻ nằm cầu gối đất, kẻ cơ bần khất cái và kẻ gieo giếng thắt dây...”
Tóm lại, mười hai loại cô hồn kể trên chỉ là sự phân chia mang tính khái quát, đại diện cho các thành phần trong xã hội. Nếu xét về chi tiết thì trong mỗi loại cô hồn có vô vàn cá biệt, tùy theo nghiệp dĩ của mỗi người thuộc các thành phần chết đi mà thành.
Nói chung, những loại cô hồn này chịu nhiều khổ đau, vất vưởng và luôn bị đói khát hành hạ cho đến khi người thân trợ giúp về phước đức, hay chịu hết nghiệp mà tái sanh cảnh giới khác vv....