Bác sĩ Ngoại Thần Kinh

Bác sĩ Ngoại Thần Kinh Bs Chuyên khoa Phẫu thuật: Thần kinh và Cột sống
Hi vọng có thể giải đáp chút nào đó lo lắng trong lòng bạn.

Bạn biết gì về bệnh lý: SUY GIÃN TĨNH MẠCH chi dưới ??- Một cách khái quát nhất thì là bệnh lý của hệ thống mạch máu chi...
12/11/2025

Bạn biết gì về bệnh lý: SUY GIÃN TĨNH MẠCH chi dưới ??

- Một cách khái quát nhất thì là bệnh lý của hệ thống mạch máu chi dưới, cụ thể là TĨNH MẠCH, với biểu hiện bằng triệu chứng sớm là đau bắp chân và bằng mắt quan sát có thể thấy được những mạch máu GÂN XANH nổi nhiều và rõ ở cẳng chân, giai đoạn nặng sẽ thấy xuất hiện các vết loét.

- Nếu nhận diện sớm được bệnh lý, bạn HOÀN TOÀN có thể dựa vào tập luyện, và dùng 1 số nhóm thuốc theo khuyến cáo để hỗ trợ quá trình hồi phục mà KHÔNG PHẢI đối diện với nguy cơ thực hiện các biện pháp can thiệp sâu hơn như: Laser, RF, phẫu thuật, điều trị loét.

- Việc điều trị sớm, và đúng theo khuyến cáo của các hiệp hội (ESVS 2022, SVS/AVF 2023) sẽ giúp bạn nhanh chóng cải thiện tình trạng này. Đừng CHẦN CHỪ cũng như đặt NIỀM TIN vào sai chỗ.

- Hãy luôn nhắc bản thân và những người thân yêu giữ 1 lối sống năng động: TRÁNH NGỒI/CÚI/GẬP/ĐỨNG LÂU và hãy chăm chút đôi chân thông qua việc: ĐI BỘ đều đặn, tập cơ bắp chân, co duỗi cổ chân để phòng ngừa bệnh lý này nhé.


10/11/2025

Hãy tìm hiểu 1 vài thông tin về LỆCH LẠC TÌNH DỤC: PHÔ DÂM, THỊ DÂM VÀ LOẠN DỤC CỌ XÁT. Biết được 1 số đặc tính của bệnh có thể sẽ giúp bạn bình tĩnh hơn để đối phó với những kẻ BIẾN THAI dạng này.

Thỉnh thoảng đọc trên báo hay trên các trang mạng diễn đàn của giới trẻ, thỉnh thoảng tôi lại thấy những tin cảnh báo về những kẻ bệnh hoạn thích khoe của quý, hay thích ăn trộm đồ lót của các bạn nữ. Đa số các bạn đều rất băn khoăn sợ hãi những kẻ ấy gây bất lợi gì cho mình. Ngay cả trên ask, tôi cũng nhận được câu hỏi về vấn đề này khiến tôi nuôi ý định viết một bài về các chứng bệnh tâm lý lệch lạc tình dục. Nhưng do bản thân quá bận, cộng thêm quá nhiều dự định nên đến bây giờ mới có thời gian mà viết về chủ đề này. Hy vọng nó không là quá muộn và các bạn nữ khi đọc có thể hiểu thêm về tính chất, cũng như suy nghĩ, mong muốn của những tên biến thái ấy để qua đó bảo vệ bản thân mình.
Lệch lạc tình dục trong tiếng anh có tên là Paraphilia Disorder, tên này nếu dịch ra theo nghĩa đen của nó chính là tình yêu vượt mức bình thường. Đặc điểm chính của các bệnh về lệch lạc tình dục là sự thôi thúc tình dục dai dẳng và những ảo tưởng kỳ quặc có liên quan đến những thứ/ vật không phải là người, sự đau đớn tủi nhục của bạn tình, trẻ em. Theo DSM-5, tình dục khác thường không giống lệch lạc tình dục nếu như nó xảy ra giữa hai người trưởng thành và cả hai cùng chấp thuận sự khác thường này. Nói cách khác, tình dục khác thường chỉ về sự thôi thúc và hứng thú tình dục với những thứ khác không phải là bộ phận sinh dục. Ví như trong SM (Sa**sm & Masochism), bạn chỉ đạt đến cực khoái khi bạn gây ra đau đớn bằng cách đánh (không phải là hành hạ) bạn tình, còn bạn tình của bạn chỉ lên đỉnh khi được người khác đánh hay ngắt nhéo. Đây chính là tình dục khác thường, nhưng nó sẽ không bị coi là lệch lạc tình dục nếu bạn và người tình của bạn hiểu và cả hai cùng đồng ý phương thức yêu này. Nếu người tình của bạn không đồng ý mà bạn ép uổng người ta khiến người ta bắt buộc phải làm với bạn và khiến họ sợ hãi, buồn bã thì bạn sẽ bị coi như là mắc bệnh lệch lạc tình dục.
By Wanda Detemmerman
Các bệnh về lệch lạc tình dục bao gồm: Phô dâm, Thị dâm, Loạn dục cọ xát, Ái dâm, Khổ dâm, Ái tử thi, Ái nhi, Ái vật, Thính dâm, Loạn dục cải trang… Nhưng vì tính chất bài viết là giúp cho các bạn nữ hiểu và phòng tránh các trường hợp mà theo tôi là dễ gặp khi các bạn ở ký túc xá nữ và nơi công cộng nên bài viết này tôi chỉ chú trọng vào Phô dâm, Thị dâm, và Loạn dục cọ xát.
Phô dâm nếu giải thích ngắn gọn chính là khoe của quý với những người lạ mặt hoặc những người không có ý định nhìn. Triệu chứng của bệnh này chính là sự hưng cảm tình dục mãnh liệt khi để lộ bộ phận sinh dục của mình trước những người không biết, không đề phòng, biểu hiện qua những ý tưởng, sự thúc đẩy và hành vi, hoặc những ảo tưởng về tình dục như vậy gây khó khăn trong cuộc sống, công việc của một người. Triệu chứng này phải kéo dài trong vòng ít nhất sáu tháng để có thể chẩn đoán chính thức. Hành vi khoe của quý này được biết đến dưới một cái tên hoa mỹ khác là “sự phô bày khiếm nhã”. Khoảng một nửa số đàn ông mắc bệnh này thường có tình trạng cương lên và thủ dâm tại chỗ khi phô bày của quý. Số còn lại thì khoảng một thời gian ngắn sau mới thủ dâm, vừa làm vừa tưởng tượng lại phản ứng của nạn nhân khi hắn trưng bày miễn phí “của cải” của hắn. Mục đích của những gã này thường là mong muốn nhìn thấy nạn nhân sợ hãi, sốc, hoảng hốt, đôi lúc những kẻ này cũng mường tượng, ảo tưởng rằng nạn nhân sẽ động tình lại với gã. Bọn chúng rất hiếm khi chạm vào hay quấy rối nạn nhân. Vì thế nên các bạn nữ hãy yên tâm phần nào nhé, hầu như có rất ít trường hợp những kẻ phô dâm cưỡng bức nạn nhân. Theo suy nghĩ của bản thân tôi thì lúc ấy bọn chúng tay bận “làm việc”, đầu bận bay bổng trong mớ ảo tưởng biến thái rồi.
Bệnh phô dâm gần như chỉ có ở đàn ông. Những kẻ này bắt đầu màn trình diễn của quý từ khi còn là niên thiếu hoặc đầu hai mươi. Còn khi trưởng thành thì hầu hết đã kết hôn hoặc có bạn tình. Phô dâm ít khi nào là hành động đơn lẻ chỉ xảy ra một hai lần, đàn ông, thanh niên một khi đã bắt đầu hành vi này thì có xu hướng làm thường xuyên.
Trong thị dâm thì sự hưng cảm tình dục chỉ có khi kẻ này đang rình mò quan sát nạn nhân (thường là người lạ và không biết mình bị quan sát) trần truồng, hoặc đang trong chuyện mây mưa với người khác. Hầu hết mọi người, nhất là đàn ông, thường bắt đầu hưng phấn khi thấy người khác khỏa thân một phần. Nhưng những kẻ thị dâm này lại khác, bọn chúng không thể hưng phấn nếu người bị quan sát biết là mình đang bị nhìn trộm. Chúng có thể ảo tưởng rằng nạn nhân sẽ có quan hệ tình dục với chúng nhưng hầu như những gã này rất hiếm khi thực sự liên lạc với nạn nhân. Hành vi của bọn chúng đúng với nghĩa rình mò, tức là chỉ thích núp và nhìn lén chứ không hề có ý định chạm vào nạn nhân, hơn nữa còn bọn chúng còn có xu hướng giữ khoảng cách với nạn nhân. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ xảy ra dù là rất ít. Những kẻ thị dâm, cũng giống như phô dâm thường thủ dâm và đạt cực khoái khi rình mò nạn nhân lúc đó hoặc là vừa làm vừa nhớ lại những hình ảnh chúng thấy.
Với loạn dục cọ xát nếu bạn nào hay xem truyện tranh nhật sẽ thường thấy cảnh nhân vật chính bị ông chú già nào đó cạ “của cải” của mình vào những phần nhạy cảm như mông, ngực, đùi… Đó là hành vi của những kẻ mắc loạn dục cảm xúc. Những kẻ này thường mặc đồ rất nghiêm túc, chỉn chu nhưng chỉ đạt hưng cảm khi ma sát của quý vào người người khác. Người mắc loạn dục cảm xúc thường hay chọn chỗ đông người như tàu điện ngầm, công viên, vỉa hè để bọn chúng có thể dễ dàng tẩu thoát sau khi xong chuyện. Giống như bệnh phô dâm, những người mắc loạn dục cảm xát hành động thường xuyên và thường cố gắng chạy trốn càng nhanh càng tốt sau khi chạm và cọ xát vào nạn nhân. Họ không muốn có những tiếp xúc gợi dục xa hơn nữa với nạn nhân. Tức là họ sẽ không có xu hướng cưỡng bức nạn nhân mình.
By Paul Murphy
Những nghiên cứu sinh lý về loạn dục tình dục thường tập trung vào hệ thống nội tiết bao gồm các hóc môn có liên quan đến các hoạt động tình dục. Nhiều nghiên cứu về các tên tội phạm tình dục bị bắt cho thấy bằng chứng về hàm lượng testosterone cao có thể dẫn đến các hành vi, suy nghĩ lệch lạc tình dục. Những nghiên cứu này nên được đọc với thái độ trung lập kèm theo một chút hoài nghi về độ chính xác hoàn toàn của nó. Thứ nhất là những người tham gia nghiên cứu này không được chọn ngẫu nhiên mà chỉ gói gọn trong phạm vi những tên tội phạm tình dục bị bắt, cho nên kết luận từ những nghiên cứu này không chắc có thể dùng để nói về tất cả các bệnh nhân mắc chứng lệch lạc tình dục. Thứ nhì, tỷ lệ những tên tội phạm này dùng rượu, dùng thuốc rất cao, nên khó có thể khẳng định là do hàm lượng testosterone cao dẫn đến lệch lạc tình dục, hay đó là hệ quả từ việc dùng chất kích thích và dùng rượu quá nhiều.
Cấu trúc não bất thường cũng có thể dẫn đến hành vi tình dục khác thường. Một số tài liệu có chỉ rõ ra những người mắc chứng ái nhi và phô dâm có thùy não thái dương bên trái bất thường. Sự bất thường này có thể thấy rõ qua những bất thường về phản ứng giữa các dòng điện tế bào và các bài kiểm tra thần kinh thấp dưới mức bình thường.
Các yếu tố xã hội dẫn đến lệch lạc tình dục bao gồm bệnh nhân bị lạm dục tình dục khi còn nhỏ, hay nghe về các hành vi tình dục bất thường của cha mình, thiếu tự tin vào bản thân, thiếu môi trường với hình mẫu cha mẹ cố định trong việc hình thành và giáo dục kiến thức với tình dục (ví dụ như cha hay mẹ thay người tình như thay áo), thiếu tự tin và khả năng xây dựng và giữ vững các mối quan hệ xã hội. Không biết, hoặc biết quá ít về tình dục loài người cũng có thể dẫn đến lệch lạc tình dục (có một số trường hợp về các cậu bé, cô bé người rừng, sống cùng với các loài động vật, nếu không giáo dục và chỉ bảo rõ ràng thì các em có thể bị lệch lạc tình dục khi lớn lên).
Mặc dù đặc điểm chính của các chứng lệch lạc tình dục là vấn đề về hưng cảm tình dục, nhưng bệnh này có thể ảnh hưởng đến đời sống và các mối quan hệ xã hội của bệnh nhân. Những bệnh nhân mắc chứng này thường cô độc, bấp bênh, cách ly và thiếu hụt các kỹ năng xã hội. Độc hại hơn, các hành vi lệch lạc tình dục sẽ càng ăn sâu bởi vì nó khiến cho bệnh nhân có được cảm giác hưng cảm cực kỳ nhất thời khi đạt cực khoái và cả ảo tưởng viển vông rằng bệnh nhân sẽ có mối quan hệ tình cảm mặn nồng với nạn nhân.
Từ các nguyên nhân, yếu tố có thể gây ra lệch lạc tình dục mà tôi đã nói trên, chúng ta có các phương pháp chữa trị dựa trên từng nguyên nhân. Liệu pháp chữa trị nhận thức hành vi được sử dụng rộng rãi với các buổi giáo dục về tình dục, quan hệ xã hội, xử lý áp lực. Tuy nhiên, kết quả không được khả quan mấy, tỷ lệ bệnh nhân tái phạm tội sau khi được trị liệu vẫn cao xấp xỉ so với bệnh nhân không được trị liệu. Một phương thức chữa trị khác nữa là dùng thuốc làm giảm hàm lượng testosterone. Các ảo tưởng về tình dục và các trường hợp quấy rối tình dục đều giảm hẳn với tất cả các bệnh nhân dùng thuốc. Nhưng nghiên cứu này thiếu nhóm kiểm tra (nhóm không dùng thuốc, dùng so sánh sự khác biệt giữa dùng thuốc và không dùng thuốc) thế nên tính hiệu lực của nghiên cứu này cần được xem xét.
Với những bạn sống trên đất Mỹ có thể dùng ứng dụng trên iPhone tên là S*x Offender Tracker. Ứng dụng này hiển thị những người đã từng phạm tội tình dục và đã được thả ra đang ở gần nơi bạn sống. Theo luật của Mỹ ở trên 50 tiểu bang, tất cả những tội phạm tình dục sau khi được thả ra phải đi đăng ký tên cũng như tội danh ở các tòa thị chính. Sau đó tên tuổi của những tên tội phạm này sẽ được thông báo cho khu dân cư sống quanh vùng mà tên tội phạm ấy sẽ sống với mục đích là giảm thiểu khả năng phạm tội lại của những gã này và người dân sống quanh khu vực có thể bảo vệ con cái và bản thân mình tốt hơn nếu biết được có một người nguy hiểm như vậy sống gần đây. Tuy đây là luật nhưng vẫn có nhiều phản đối xoay quanh luật này về tính nhân đạo của nó. Với những người phản đối, họ cho rằng luật này chính là một sự trừng phạt kéo dài với những người lỡ lầm và đã chuộc tội mình qua những năm tháng tù giam.
Như tôi đã nói từ đâu bài, những kẻ mắc thị dâm, phô dâm và loạn dục cọ xát không có ý định tiếp xúc trực tiếp với các nạn nhân mà mục đích của bọn chúng chỉ là rình mò, khoe của quý và cọ xát nên các bạn đừng lo là những kẻ đó sẽ cưỡng bức mình. Các bạn nữ khi gặp phải những kẻ phô dâm, tốt nhất là các bạn nên bình tĩnh, lờ hắn và tiếp tục đi. Các bạn có thể gọi điện thoại cho bạn mình và làm như bạn đang gọi điện thoại báo công an vậy. Đừng nên nhận xét hay nói những câu chọc giận hắn (như nhỏ quá v.v…) vì điều này có thể khiến cho hắn tức giận và gây ra những phản ứng bạo lực. Nếu bạn bị theo dõi thì hãy đi vào chốn đông người như nhà hàng, quán ăn, bệnh viện, khách sạn… hoặc đi đến nhà dân và nhờ người ta gọi điện cho cảnh sát hoặc cho người khác đến đón bạn, đừng nên đi thẳng về nhà vì kẻ theo dõi bạn sẽ biết bạn sống ở đâu và cái này thì…cực kỳ không tốt.
Để tránh bản thân trở thành những diễn viên bất đắc dĩ trong các video quay trộm thì các bạn khi đi các nhà vệ sinh công cộng nên chú ý tình huống xung quanh mình xem có kẻ nào khả nghi hay không. Bạn mình gặp phải tình huống khi bạn ấy vào phòng vệ sinh nữ thì nghe phòng bên cạnh có tiếng cười giỡn, giậm chân của hai đứa con gái, bạn ấy chú ý lắng nghe và đứng im lặng khoảng một hai phút thì thấy có hai cái đầu của hai đứa con gái từ buồng bên cạnh thò qua nhìn xuống. Do vách ngăn không chạm đến trần nên chỉ cần đứng trên bồn cầu là đã có thể nhìn qua buồng bên. Hai đứa đó thấy bạn mình nhìn ngược lại và hỏi “Bọn mày đang làm cái gì đấy” thì hét ầm lên và chạy ra. Bạn mình sau đó đi gặp quản lý nhà hàng và kể lại tình huống. Ngoài ra các bạn nữ đi vào phòng vệ sinh thì nên nhìn coi xem có tấm áp phích, vật gì lạ có thể giấu camera hay không và trước khi thay quần áo ở nhà hay ở phòng trọ thì nhớ đóng các cửa lại cho cẩn thận.
Rất tiếc là không có biện pháp nào hữu dụng để chống lại những kẻ mắc loạn dục cọ xát cả. Ở Nhật Bản thì phụ nữ được khuyến khích mang theo cây kim hay vật nhọn để đâm vào đùi những kẻ bệnh hoạn này khi bọn chúng hành động. Bản thân mình nghĩ thì hiện tại các bạn nữ không nên quá lo lắng về những kẻ này vì tình trạng giao thông nước ta chưa tạo đủ điều kiện để những kẻ này hành động vì chủ yếu bọn chúng hành động trên tàu điện ngầm hoặc những nơi cực kỳ cực kỳ đông đúc để bọn chúng có thể chạy trốn mà ở Việt Nam ta thì chưa có tàu điện ngầm, nhưng các bạn cũng nên mang theo vật nhọn gì ấy để phòng ngừa và bảo vệ bản thân.
Thêm nữa, tuy được mắc vào chứng bệnh, nhưng tuyệt đối không thể dựa vào việc một người nào đó bị bệnh mà anh ta/cô ta thoát tội. Ví dụ như thái nhân cách cũng là một bệnh về rối loạn nhân cách, nhưng nếu gây tội ác thì người đó phải được trừng trị (và thái nhân cách thì thường không có cách trị liệu nào hiệu quả, hoặc có thể nói là gần như không chữa khỏi được). Về mặt xã hội, sẽ rất lý tưởng nếu như chúng ta có thể đảm bảo quyền lợi cho tất cả mọi người – bao gồm cả những người bị bệnh; thế nhưng nếu người bị bệnh gây ảnh hưởng lên nhiều đối tượng khác trong khi đó bản thân họ hoặc gia đình/người thân không có biện pháp kiểm soát, thì pháp luật sinh ra để cách ly và giảm thiểu tối đa những tổn hại về tâm lý và thân thể (nếu có) cho mọi người trong xã hội. Một xã hội văn minh phải đảm bảo tối thiểu số đông người dân được bảo vệ và được hưởng quyền lợi của mình. Đây là điều quan trọng mà bất cứ ai cũng nên học cách phân biệt.
Nguồn: Abnormal Psychology by Thomas F. Oltmanns, 7th edition.
Dịch và Viết: Hải Đường Tĩnh Nguyệt, Khánh Linh.

Send a message to learn more

NSAID giúp giảm đau và chống viêm hiệu quả sau mổ ở trẻ em với những cơn đau nặng hơn ta sử dụng acetaminophen hoặc opio...
03/10/2022

NSAID giúp giảm đau và chống viêm hiệu quả sau mổ ở trẻ em với những cơn đau nặng hơn ta sử dụng acetaminophen hoặc opioid.
Ibuprofen, diclofenac, ketoprofen, ketorolac là những nhóm thuốc có nhiều nghiên cứu và được sử dụng nhiều. Một vài nghiên cứu cho rằng Ketorolac làm tăng nguy cơ chảy máu hơn so với các NSAID khác tuy nhiên còn nhiều tranh cãi.
Chống chỉ định với bệnh nhân mẫn cảm. Thận trọng với bệnh nhân đang có RL chức năng gan, suy giảm chức năng thận, giảm thể tích máu/tụt huyết áp, rối loạn chức năng đông máu, giảm tiểu cầu máu hoặc đang có điểm chảy máu hoạt động.
Có vẻ như trẻ em với hen mức độ nhẹ có thể sử dụng được.

,

Trytophan là một acid amin rất tốt cho giấc ngủ.Bạn có thể tìm thấy loại acid amin này trong 1 số loại thực phẩm hàng ng...
30/03/2022

Trytophan là một acid amin rất tốt cho giấc ngủ.
Bạn có thể tìm thấy loại acid amin này trong 1 số loại thực phẩm hàng ngày: lòng trắng trứng, đậu nành, hạt chia, thịt gà - bò, các chế phẩm từ sữa, phomat....
Tuy nhiên khi cung cấp 1 lượng quá nhiều có thể đem lại cho bạn cảm giác: buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, quá khích... .
Tham khảo thêm tại:

Tryptophan (symbol Trp or W)[3] is an α-amino acid that is used in the biosynthesis of proteins. Tryptophan contains an α-amino group, an α-carboxylic acid group, and a side chain indole, making it a polar molecule with a non-polar aromatic beta carbon substituent. It is essential in humans, mean...

25/11/2021

1- Neurology: thần kinh học (nội thần kinh)
2- Neurosurgery: phẫu thuật thần kinh (ngoại thần kinh)
3- Levels of consciousness: mức độ ý thức của bệnh nhân
4- Clouding state of consciousness: trạng thái mất tập trung
5- Confusional state: trạng thái mất định hướng, lú lẫn
6- Lethargy: li bì
7- Obtundation: trạng thái ngủ gà
8- Stupor: trạng thái lơ mơ
9- Coma: trạng thái hôn mê
10- awake: trạng thái thức
11- alert: trạng thái tỉnh táo

source: fb

22/11/2021

Rò dịch não tủy sau chấn thương CSF fistula

1. Tỷ lệ: 2-3 % ở BN có chấn thương đầu chủ yếu 3 tháng sau chấn thương, thường tự bít trong tuần đầu hoặc kéo dài đến 6 tháng.
2. Điều trị:
2.1 Ban đầu: phần lớn là theo dõi, không có sự khác biệt giữa sử dụng và không dùng kháng sinh dự phòng.
2.2 Rò kéo dài:
2.2. 1 Nội khoa:
- Làm giảm áp lực nội sọ: nghỉ ngơi tại giường, tránh táo bón/nhảy mũi; acetazolamid 250mg QID; hạn chế dịch 1500 ml/day in adults (75% ped).
- Dẫn lưu thắt lưng nếu kéo dài ( loại trừ giãn não thất do tắc nghẽn)
2.2.2 Phẫu thuật:
- Kéo dài > 2 tuần sau nội khoa
- Rò tự phát và trong rò muộn sau chấn thương/phẫu thuật (nguy cơ rò tái phát cao)
- Biến chứng viêm màng não tái phát.
3. Biến chứng: Viêm màng não:
- 20% bệnh nhân chấn thương nặng, phần lớn xảy ra trong 2 tuần đầu.
- Kháng sinh theo kinh nghiệm: Vancomycin 15mg/kg q 8-12h + meropenem 2g IV q 8h.

02/11/2021

Rối loạn Tiền đình sau chấn thương đầu

1. Định nghĩa: là tình trạng khởi phát do tổn thương vào hệ thống tiền đình ngoại vi hoặc trung tâm gây ra triệu chứng mất thăng bằng, chóng mặt, hoa mắt và/ hoặc ù tai.
2. Bệnh sinh: chấn thương, nhiễm trùng (virus), tuổi tác. Trong chấn thương đầu có thể gây ra cả trung ương và ngoại vi.
3. Dịch tễ:
- Chóng mặt, mất thăng bằng và hoặc khó khăn trong phối hợp động tác xuất hiện khoảng ½ sau 5 năm ở bệnh nhân chấn thương.
- Tỷ lệ cao hơn phụ thuộc mức độ chấn thương và kèm với tổn thương xương thái dương.
4. Phục hồi chức năng
- Habituation – tập làm quen với kích thích
- Adaption – các bài tập quay đầu cải thiện về tư thế giúp giảm triệu chứng
- Substitution – các bài liên quan đến sự kiểm soát khả năng tập trung vào nhìn và tư thế
- Bài tập Dix – Hall Pike
5. Thuốc: chỉ nên dùng trong thời gian ngắn và khi thực sự cần thiết, vì có thể làm chậm phục hồi tự nhiên của cơ thể.
- Nhóm antihistamin: meclizine và promethazine
- Nhóm Anticholinergic: Scopolamine
- Nhóm Phenothiazine: prochlorperazine
- Nhóm Benzodiazepine: Diazepam, lorazepam và clonazepam
6. Phẫu thuật: cân nhắc phụ thuộc nhiều yếu tố



28/10/2021
Lược đồ tiếp cận áp xe có thể dẫn lưu và nhiễm trùng da có dẫn lưu mủ.MRSA: methicillin-resistant S. aureus; IV: intrave...
28/10/2021

Lược đồ tiếp cận áp xe có thể dẫn lưu và nhiễm trùng da có dẫn lưu mủ.

MRSA: methicillin-resistant S. aureus; IV: intravenously; AUC: area under the 24-hour time-concentration curve; MIC: minimum inhibitory concentration.
​* This includes a history of infective endocarditis, prosthetic valve or perivalvular material, and unrepaired congenital heart disease. Refer to other UpToDate content for more details.
¶ We suggest antibiotic therapy for all patients with skin abscesses. However, because many abscesses can be successfully treated with incision and drainage alone, it is reasonable to forgo antibiotic therapy in otherwise healthy patients who have small (eg, 120 kg] or more severe illness):
Amoxicillin 875 mg orally twice daily.
Amoxicillin-clavulanate 875 mg orally twice daily.
Clindamycin 450 mg orally 3 times daily.
Ciprofloxacin 500 mg orally twice daily.
Doxycycline 100 mg orally twice daily.
Levofloxacin 750 mg orally once daily.
Metronidazole 500 mg orally 3 times daily.
Minocycline 200 mg orally once, then 100 mg orally twice daily.
Trimethoprim-sulfamethoxazole 1 to 2 double-strength tablets orally twice daily.
‡ For oral anti-MRSA coverage, we generally favor trimethoprim-sulfamethoxazole, doxycycline, or minocycline because of the greater associated risk of Clostridioides (formerly Clostridium) difficile infection with clindamycin. Other active options include linezolid, tedizolid, delafloxacin, and omadacycline, but these should be reserved for circumstances in which the other options cannot be used.
† Intravenous antibiotic dosing as follows (if 2 doses are listed for a given agent, the higher one is for patients with higher weights [eg, >120 kg] or more severe illness):
Ampicillin-sulbactam 3 g IV every 6 hours.
Ceftriaxone 1 to 2 g IV every 24 hours.
Ciprofloxacin 400 mg IV every 12 hours.
Daptomycin 4 to 6 mg/kg IV every 24 hours.
Levofloxacin 750 mg IV once daily.
Metronidazole 500 mg IV every 8 hours.
Piperacillin-tazobactam 3.375 or 4.5 g IV every 6 hours.
Ticarcillin-clavulanate 3.1 g IV every 4 hours.
Vancomycin: For severely ill patients, a loading dose (20 to 35 mg/kg) is appropriate; the loading dose is based on actual body weight, rounded to the nearest 250 mg increment and not exceeding 3000 mg. Within this range, we use a higher dose for critically ill patients. The initial maintenance dose and interval are determined by nomogram (typically 15 to 20 mg/kg every 8 to 12 hours for most patients with normal renal function). Subsequent dose and interval adjustments are based on AUC-guided or trough-guided serum concentration monitoring. Refer to the UpToDate topic on vancomycin dosing for sample nomogram and discussion of AUC-guided and trough-guided vancomycin dosing.
** Vancomycin is the preferred parenteral anti-MRSA option. Daptomycin is an acceptable alternative agent for patients who have prior infection or colonization with a MRSA isolate with MIC ≥2, do not respond to vancomycin, have prior treatment failure with vancomycin, or do not tolerate vancomycin. Additional alternative anti-MRSA agents include ceftaroline, linezolid, tedizolid, delafloxacin, omadacycline, telavancin, dalbavancin, and oritavancin; use of these agents is limited by high cost and, in some cases, availability. Refer to the UpToDate topic on the treatment of skin and soft tissue infection due to MRSA for further discussion of the approach to antibiotic selection.
¶¶ Because of uncertain streptococcal coverage with doxycycline or minocycline, we add amoxicillin to each of these agents to ensure coverage, although it is not clear that this is necessary. If added, amoxicillin can be discontinued if cultures do not grow Streptococcus species.

© 2021 UpToDate, Inc. and/or its affiliates. All Rights Reserved.

Lược đồ quản lý áp xe không mủ. MRSA: methicillin-resistant Staphylococcus aureus - Tụ cầu kháng methicillin; MSSA: meth...
28/10/2021

Lược đồ quản lý áp xe không mủ.

MRSA: methicillin-resistant Staphylococcus aureus - Tụ cầu kháng methicillin; MSSA: methicillin-susceptible S. aureus - tụ cầu nhạy với methicillin; IV: intravenously - đường tĩnh mạch; AUC: area under the 24-hour time-concentration curve.
* The decision to administer antimicrobial therapy parenterally ( tĩnh mạch or tiêm bắp) should be individualized based on clinical presentation and patient characteristics. Parenteral antimicrobial therapy is generally appropriate when severe illness or any of these features is present. Comorbidities that increase the risk of severe or complicated infection, such as the presence of an immunocompromising condition (eg, neutropenia, recent organ transplant, advanced HIV infection, B cell or T cell deficiency, or use of immunosuppressive agents), should lower the threshold for parenteral therapy.
¶ Five days of antibiotic therapy is generally sufficient; extension up to 14 days may be warranted for slow response to therapy.
Δ Intravenous antibiotic dosing as follows (if 2 doses are listed for a given agent, the higher one is for patients with higher weights [eg, >120 kg] or more severe illness):
Cefazolin 1 to 2 g IV every 8 hours.
Ceftriaxone 1 to 2 g IV every 24 hours.
Ciprofloxacin 400 mg IV every 12 hours.
Clindamycin 600 to 900 mg IV every 8 hours.
Daptomycin 4 to 6 mg/kg IV every 24 hours.
Flucloxacillin 2 g IV every 6 hours.
Nafcillin 1 to 2 g IV every 4 hours.
Oxacillin 1 to 2 g IV every 4 hours.
Vancomycin: For severely ill patients, a loading dose (20 to 35 mg/kg) is appropriate; the loading dose is based on actual body weight, rounded to the nearest 250 mg increment and not exceeding 3000 mg. Within this range, we use a higher dose for critically ill patients. The initial maintenance dose and interval are determined by nomogram (typically 15 to 20 mg/kg every 8 to 12 hours for most patients with normal renal function). Subsequent dose and interval adjustments are based on AUC-guided or trough-guided serum concentration monitoring. Refer to the UpToDate topic on vancomycin dosing for sample nomogram and discussion of AUC-guided and trough-guided vancomycin dosing.
◊ Oral antibiotic dosing as follows (if 2 doses are listed for a given agent, the higher one is for patients with higher weights [eg, >120 kg] or more severe illness):
Amoxicillin 875 mg orally twice daily.
Cefadroxil 500 mg twice daily OR 1 g orally daily.
Cephalexin 500 mg orally 4 times daily.
Clindamycin 450 mg orally 3 times daily.
Dicloxacillin 500 mg orally 4 times daily.
Doxycycline 100 mg orally twice daily.
Flucloxacillin 500 mg orally 4 times daily.
Minocycline 200 mg orally once, then 100 mg orally every 12 hours.
Penicillin V potassium 500 mg orally every 6 hours.
Trimethoprim-sulfamethoxazole 1 to 2 double-strength tablets orally every 12 hours.
§ Penicillin and amoxicillin are preferred for erysipelas. For patients with a penicillin allergy, cephalexin (depending on the allergy), clindamycin, and trimethoprim-sulfamethoxazole are alternatives. Linezolid is another alternative but should be reserved for circumstances in which the other options cannot be used.
¥ Risk factors for MRSA include:
Recent (eg, within the prior 1 to 2 months) hospitalization or surgery.
Residence in a long-term care facility.
Hemodialysis.
HIV infection.
‡ For oral treatment of beta-hemolytic Streptococcus and MRSA, we generally favor trimethoprim-sulfamethoxazole, doxycycline, or minocycline because of the greater associated risk of Clostridioides (formerly Clostridium) difficile infection with clindamycin. However, doxycycline and minocycline do not have good antistreptococcal activity and so are administered with amoxicillin. Other active options include linezolid, tedizolid, and delafloxacin, but these should be reserved for circumstances in which the other options cannot be used.
† Vancomycin is the preferred parenteral anti-MRSA option. Daptomycin is an acceptable alternative agent for patients who have prior infection or colonization with a MRSA isolate with a minimum inhibitory concentration ≥2, do not respond to vancomycin, have prior treatment failure with vancomycin, or do not tolerate vancomycin. Additional alternative anti-MRSA agents include ceftaroline, linezolid, tedizolid, delafloxacin, omadacycline, telavancin, dalbavancin, and oritavancin; use of these agents is limited by high cost and, in some cases, availability. Refer to the UpToDate topic on the treatment of skin and soft tissue infection due to MRSA for further discussion of the approach to antibiotic selection.
** For patients who require oral treatment with activity ag*inst beta-hemolytic Streptococcus and MRSA, monotherapy with either trimethoprim-sulfamethoxazole or clindamycin may be used; because of uncertain streptococcal coverage with doxycycline or minocycline, we add amoxicillin to each of these agents to ensure adequate antistreptococcal activity. Refer to the UpToDate topic on treatment of cellulitis for further discussion.
Graphic 111732 Version 11.0
© 2021 UpToDate, Inc. and/or its affiliates. All Rights Reserved.

HƯỚNG DẪN CHỌC DỊCH NÃO TỦY(Lumbar Puncture)Jennifer Alexander-BrettChọc dịch não tủy là thủ thuật thường được tiến hành...
28/10/2021

HƯỚNG DẪN CHỌC DỊCH NÃO TỦY
(Lumbar Puncture)
Jennifer Alexander-Brett
Chọc dịch não tủy là thủ thuật thường được tiến hành tại các khoa HSCC. Chương này sẽ thảo luận về chỉ định, kỹ thuật tiến hành các biến chứng và các lỗi thương mắc khi tiến hành chọc dịch não lũy ở người lớn.
CÁC CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Có một câu châm ngôn cổ hữu ích luôn cần nhớ là “Nếu bạn phân vân về việc chọc dịch não tủy, nên thực hiện thủ thuật này”. Chậm trễ trong chấn đoán viêm màng não có thể dẫn đến điều trị không thích hợp và các khó khăn trong xác nhận chấn đoán sau đó khi bệnh nhân mất khả năng cải thiện. Tương tự chẩn đóan ngay tình trạng chảy máu dưới nhện sẽ giúp điều trị sớm túi phình động mạch chảy máu và giúp dụ phòng chảy máu tái phát (Bảng 78.1 liệt kê các chỉ định chung của chọc dịch não tủy).
Có một số chống chỉ định đối với chọc dịch não tùy. Rối loạn đông màu là một chống chỉ định quan trọng do chọc dịch não tủy có thể gây máu tụ ngoài màng cùng dẫn tới tình trạng ép vung đuôi ngựa. Không có nghiên cứu nào xác nhận một giá trị giới hạn hữu ích để xem xét chỉ định hoặc chống chỉ định thủ thuật, song một chỉ số INR (international normalized ratio) > 1,4 thời gian thromboplastin từng phân hoạt hóa (aPTT) >50 và/hoặc số lượng tiểu cầu 50 cmH2O nên lấy một lượng dịch não tủy tối thiểu để gửi xét nghiệm. Các xét nghiệm phân tích dịch não tủy được trình bày trong Bảng 78.2. Nếu dịch não tủy ban đầu có biểu hiện dịch máu và sau đó trong trở lại tình trạng này gợi ý dịch não tủy bị “chạm thương” trong khi chọc, do kim chọc đã chạm phải một tĩnh mạch trên đường tới bể chứa dịch não tủy của cột sống lưng. Dịch nào tủy màu vàng chỉ dẫn hoặc các sản phẩm máu trong khoang dưới nhện đã tồn tại qua 12 - 24 giờ hoặc nồng độ protein trong dịch não tủy tăng rất cao. Đặt cẩn thận nòng dẫn trong kim chọc dịch não tủy trước và sau khi mở thông kim để lấy dịch não tủy giúp hạn chế tình trạng chảy dịch não tủy quá mức. Sau khi đã lấy đủ lượng dịch não tủy nếu cần có thể tiến hành đo áp lực “đóng” của dịch não tủy. Lắp lại nòng dẫn trong kim chọc trước khi rút bỏ kim chọc dịch não tủy . Bệnh phẩm thu được cần được gửi tới phòng xét nghiệm đề đếm tế bào, phân tích hóa sinh và nhuộm Gram cấy tìm vi khuẩn. Các xét nghiệm bổ sung thêm có thể được yêu cầu dựa trên chẩn đoán bệnh lý nền bị nghi vấn (Bảng 78.2) Cần lưu y là mẫu bệnh phẩm dịch não tủy cần được phân tích càng nhanh càng tốt sau khi thu được do các tế bào trong dịch nào tủy có xu hướng giảm đi rõ rệt chi trong vòng vài giờ sau lấy mẫu.
Hình 78.2 Vị trí kim chọc dịch tủy sống
BIẾN CHỨNG
Ngay sau khi chọc dịch não tủy cần cho bệnh nhân năm ngửa trong vòng một giờ. Tư thế này giúp làm giảm đau đầu ngay sau chọc dịch não tủy song có lẽ không giúp ngăn ngừa tình trạng đau đầu sau chọc dịch não tủy xảy ra do tình trạng màng cứng bị xé rách và rò rỉ dịch não tủy tếp diễn. Có thể làm giảm chấn thương màng cứng và rò rỉ dịch não tủy bằng cách chọn kim chọc dịch não tủy thích hợp và áp dụng dụng quy trình kỹ thuật. Dịch truyền cafein acetaminophen và thuốc chống viêm không phải là steroid có hiệu quả trong hầu hết các trường hợp đau đầu sau chọc dịch nào tủy. Tình trạng đau đầu này điển hình sẽ tiến triển tồi đi khi bệnh nhân ngồi dậy hay đứng lên và thuyên giảm khi bệnh nhân nằm xuống. Nếu đau đầu kéo dài quá 5 ngày có thể cân nhắc biện pháp tiêm máu của bệnh nhân vào màng cứng để tạo cục đông bịt lỗ rò dịch nào tủy (epidural blood patch)
Một cách hãn hữu, bệnh nhân có thể than phiền có tình trạng dị cảm hoặc đau lan xuống một bên căng chân. Trong thủ thuật chọc dịch não tủy xảy ra hiện tượng này chỉ dẫn chọc phải rễ thần kinh và cần rút bỏ kim chọc dịch não tủy, định vị lại hướng chọc kim về phía đường giữa và sau đó chọc lại kim . Đẩy kim chọc dò tủy sống cẩn thận giúp tránh gây tổn thương dây thần kinh như vừa nêu. Khi xảy ra các triệu chứng này hoặc có các triệu chứng ép tủy sau khi tiến hành thủ thuật chọc dịch nào tủy cần đặt nghi vấn có khối u dạng biểu mô trong ống tủy hoặc có máu tụ ngoài màng cứng. Trong cả hai trường hợp, tiến hành chụp phim cộng hưởng từ hoặc phim cắt lớp vi tính và cần hội chẩn ý kiến thầy thuốc phẫu thuật thần kinh khi phát hiện bệnh nhân có các khối chèn ép loại này
Các biến chứng hiếm gặp khác là hội chứng thoát vị não và vỡ tự phát một túi phình động mạch vào khoang dưới nhện. Có thể tránh để xảy ra các biến chứng này bằng cách thăm khám thực thể cẩn thận và khi có chỉ định tiến hành thăm dò hình ảnh học nào trước khi chọc dịch nào tủy.
Nguồn: Sách hồi sức cấp cứu tiếp cận theo phác đồ 2012.
https://yho.vn/thu-thuat.../huong-dan-choc-dich-nao-tuy.html

Address

Ba Ria

Telephone

+84985812945

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Bác sĩ Ngoại Thần Kinh posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Bác sĩ Ngoại Thần Kinh:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram