11/12/2025
Người xuất gia thích tiền của, thích danh tiếng và chức vụ, thích nghe lời khen, thích hưởng thụ, thích đi khắp nơi, ít Thiền định và lười Thiền định (samatha)…là người xuất gia thiếu Trí tuệ (duppaññā), tâm luôn dao động, nhiều mệt mỏi trong đời, Giới-Định-Tuệ (Sīla-Samādhi-Paññā) rất kém cỏi.
Khi 40 tuổi, trong 1 buổi học ở thành phố Hồ Chí Minh, một em gái lạ bổng dưng xuất hiện và khuyên tôi nên xem phim Buddha (55 tập, do anh Himanshu Soni đóng vai Phật Thích Ca). Lúc ấy tôi vẫn đang sống với chồng con.
Sau khi xem phim Buddha thì trước mắt tôi lúc nào cũng là Tăng đoàn của Phật Thích Ca và đời sống vắng lặng để Thiền định (samatha) và Thiền quán (Vipassanā).
Tôi tự động giữ 8 Giới Nguyên thuỷ (Sīla Theravāda)-không ăn chiều, sống vắng lặng tối đa-gần như không cần nói chuyện với chồng con, mỗi ngày đều ngồi Thiền 2 lần-lúc 3:30 sáng và buổi tối.
Ăn xong là đi kinh hành 30 phút (Vì Phật Thích Ca dạy như thế sẽ giúp bao tử cực tốt và khi đắc Thiền-Jhāna thì không bao giờ mất Bậc thiền).
Kết quả: chỉ sau 4 tháng Thiền định (samatha) thì tôi hoàn toàn bỏ được tiền của, danh tiếng, sự tích trữ…và trong đời này sẽ không bao giờ thích trở lại.
Đây là kết quả tự đến-và nó là đích đến bắt buộc phải có đối với người xuất gia và với những người muốn hết khổ-tâm còn ham thích-tham (lobha) với cái gì thì sẽ bị cái đó ràng buộc để mãi khổ (dukkha).
Ham thích là tâm tham (lobha)-là nguyên nhân của khổ (dukkha) và cứ tái sinh mãi để trả giá với các nghiệp ác (akusala kamma) đã tạo trong vô vàn kiếp sống trước.
Kết quả của tôi là sự tổng hợp của các yếu tố sau đây mà chính tôi cũng không hề biết khi mình đang lặng lẽ thực hành trong giai đoạn chưa xuất gia.
Nếu bạn làm đúng bạn sẽ buông bỏ mọi thứ dễ dàng để bạn kết thúc khổ đau của chính mình và trở nên cao thượng-được người có Trí tuệ (paññā) tôn kính, muốn gần và sẳn sàng giúp đỡ.
Người có Trí tuệ cao không bao giờ muốn gần những người xuất gia còn nhiều tham dục-ham muốn (lobha) hay sân hận-ích kỷ (dosa) và thiếu trí-lười Thiền định (samatha).
*4 yếu tố phải có đủ để Trí tuệ (paññā) mở ra và luôn sáng-không đi lùi (tức không bị tham/sân chi phối):
-1🔹Phải có Đức tin (saddhā) vào Phật Thích Ca-đức tin vững chắc như đá tảng-không có gì cản được quyết tâm làm Thiện (kusala):
Chồng tôi không ưa bố thí-cúng dường (dāna), chỉ muốn đi làm về là nhìn thấy vợ con ở nhà. Nhưng ông ấy không bao giờ có thể cản trở được bất cứ việc Thiện nào của tôi-tôi ở ngoài đường suốt ngày.
Ông ấy hiểu 1 sự thật: tôi sẳn sàng bỏ ông ấy chứ không bao giờ bỏ lý tưởng-quyết định chân chính nào của mình. Do đó ông ấy không bao giờ dám làm căng với tôi.
Khi biết câu chuyện Phật Thích Ca và Tăng đoàn phải ăn thức ăn dành cho ngựa thì từ lúc đó tôi không xài tiền cho bản thân và cũng không gửi tiền cho cha mẹ, tôi nói với mẹ tôi “con không gửi tiền cho mẹ nữa vì mẹ không có khó khăn”. Và từ đó tôi tập trung làm Thiện (kusala) ra bên ngoài và cúng dường (dāna).
Chỉ cần đọc 1 bản tin và tin đó là hoàn cảnh khổ (dukkha) thật sự thì 15 phút sau tôi đã có mặt ở Ngân hàng để chuyển tiền đi, chưa bao giờ chậm trễ. Đang làm việc mà chùa nhờ chở người đi công việc là tôi bỏ việc đi làm ngay. Nữa đêm sẳn sàng chở người đi cấp cứu miễn phí dù buồn ngủ mở mắt không nổi…
Vào chùa/thiền viện tôi không bao giờ cúng số tiền lẻ hay những tờ tiền nhỏ, tôi luôn lấy những tờ 500.000đ để cúng dường vì với Tôi Phật Thích Ca là tối thượng nhất-xứng đáng hưởng những gì tốt đẹp nhất và khi tôi cúng tiền cơm cho Tăng đoàn tôi cũng dùng tiền ấy.
Tôi đi Đà Lạt chơi, đến 1 ngôi chùa có các Sư cô trẻ đi học mà không có xe, về nhà tôi lấy chiếc xe đẹp nhất mà tôi thương nhất để gửi lên cúng dường cho các cô dùng đi học…
Chồng tôi thấy xe tôi biến mất, ông luôn gặng hỏi nhưng tôi chỉ cười-với người không cùng chí hướng và không thể đi chung đường thì không cần nói nhiều với họ.
Khi có Đức tin (saddhā) trong sáng vào Phật Thích Ca (Buddha Sakya), bạn sẽ không bao giờ làm Thiện (kusala kamma) vì mưu mô hay toan tính và cầu vái đủ thứ cho bản thân-đây là tâm tham (lobha) làm ô nhiễm đức tin và bạn không thể tạo Ba la mật (Pāramī) nếu làm Thiện mà cầu vái cho mình hoặc cho người thân...
Mỗi khi đến chùa cúng dường (dāna) tôi chỉ nguyện: mong mọi người sống lương thiện (không giả dối, lường gạt) và đất nước tránh cảnh binh đao-chiến tranh.
Không ai biết việc tôi làm suốt bao nhiêu năm.
Giờ kể lại để những con người chân thật (ngày nay không còn nhiều người chân thật-sacca) và hết lòng tôn kính Thiền viện Pa Auk Myanmar có thể nhanh đến ngày xuất gia hơn, và đi vững chắc trên con đường buông bỏ dục vọng (kāma) và mọi thứ trong đời!
-2🔹Phải có nguyện lực rõ ràng.
Chỉ có 2 lời nguyện trên con đường Giải thoát-hết khổ: nguyện thành Thánh (Ariya) hoặc thành Phật (Buddha).
Bám sát lời nguyện đó, luôn thấy Thánh (Ariya) hoặc Phật (Buddha, Sammāsambuddha) trước mắt mình để không bao giờ cho phép mình ham muốn-tự cao-thấy mình giỏi (đều là tâm tham-lobha), hay sân hận-ích kỷ-ganh ghét (tâm sân-dosa).
Nguyện lực mạnh mẽ sẽ giúp bạn rất thích cuộc sống vắng lặng một mình để giữ Giới Nguyên thuỷ (Sīla Theravāda) nghiêm túc và Thiền định (samatha).
Dù ở chổ đông người bạn cũng không muốn tụ tập để nói chuyện vì bạn hiểu đó là phóng dật (uddhacca)-thân và tâm lăng xăng, và hiểu đó là thiếu Trí tuệ (duppaññā).
Còn nếu bạn hoà nhập để nói chuyện thì chỉ với 1 mục đích duy nhất là muốn tìm cách giúp người kia giảm tâm tham-sân-si (lobha, dosa, moha).
Nguyện lực mạnh mẽ sẽ giúp bạn tự động thức sớm đúng giờ mà không hề mệt mỏi, siêng đều đặn hàng ngày để Thiền định (samatha), luôn xấu hổ dù một chút ham muốn-tâm tham (lobha) nổi lên, và luôn sống vô cùng chân thật (sacca)-Người Trí tuệ (paññā) luôn chân thật.
Khi bạn là người Trí tuệ (paññā) thì người Trí tuệ sẽ đến bên bạn, khi bạn là người nhiều tâm tham-ham muốn (lobha) thì người gian xảo và tầm thường sẽ đến bên bạn.
Người có bản chất giống nhau sẽ gặp nhau và thích nhau, nên rất dễ dàng quan sát bản chất một người dựa vào việc quan sát người mà họ thân thiết.
Việc nhìn ra bản chất của một người rất quan trọng để bạn không bị lừa, không bị lợi dụng và học tập đúng người mình cần học.
Khi bạn luôn đồng hành với Người Trí tuệ (paññā) thì bạn đang giúp bạn hạnh phúc lớn và rất cao thượng trong đời này và rất nhiều kiếp sống về sau, ngăn lại rất nhiều nghiệp ác (akusala kamma).
Lúc đó, mỗi ngày tôi đều đặn thức dậy lúc 3:30 sáng và ngồi Thiền định (Samatha) hơn 1 tiếng, sau đó chuẩn bị bữa ăn sáng cho gia đình rồi đi làm-tôi luôn nấu 1 lần bữa sáng để ăn sáng và trưa rồi tối về mới nấu bữa ăn khác, để tôi có nhiều thời gian làm Thiện hoặc đọc sách.
Ban ngày ăn xong là đi kinh hành 30 phút. Tối về thiền lần nữa rồi ngủ. Nghe Pháp rất nhiều giờ trong ngày-rảnh là nghe, đang nấu cơm quét nhà cũng mở để mình nghe và cho chúng sinh nghe. Mỗi ngày chỉ có khoảng 4 suy nghĩ. Ghi chép rất cẩn thận với những gì nghe được và nhớ rất kỹ những điều quan trọng làm giảm tâm Tham-Sân-Si (lobha, dosa, moha).
Mỗi tuần đều đặn vào Chủ nhật hoặc ngày Lễ thì hai mẹ con sau khi ăn sáng sẽ đến chùa để cúng tiền và làm công quả suốt ngày cho đến chiều tối mới về nhà. Có khi chỉ lái xe khoảng 3km, có khi hơn trăm km.
Vào chùa thì tôi tìm việc cho con gái làm như quét dọn Chánh điện (Dinning hall, Meditation hall), còn tôi vào nhà bếp.
Bữa trưa sau khi ăn và dọn rửa xong thì hai mẹ con tìm chổ vắng để ngồi Thiền chung. Chiều về trong khi tôi lái xe thì con gái sẽ kể lại những gì diễn ra và tôi sẽ phân tích cho con hiểu theo góc độ Nhân quả-tức nghiệp (kamma)…
VD con gái có lần kể: mẹ biết không, hôm nay con vừa thoát khỏi nghiệp ác (akusala kamma). Đó là lúc con quét Chánh điện (Dinning hall, Meditation hall) thì con tức giận vì thấy nó quá dơ bẩn. Nhưng lúc đó con nhớ lời mẹ dạy “hoan hỷ trước khi làm thiện, trong khi làm thiện, sau khi làm thiện”. Con đọc câu đó 1 lúc thì tâm con vui vẻ trở lại.
Tôi nói lời động viên con và phân tích cho con hiểu nhân quả nếu con có tâm sân (tức giận, dosa) vào lúc đó: làm Thiện mà sân-giận thì sau này tái sinh làm người nhưng xấu xí và không đẹp, rất dễ quạu-tức giận, ít được mọi người yêu thương…
Từ khi con gái được 4 tuổi tôi đã nhận ra nó biết cách kiếm tiền chân chính nên tôi đã khuyến khích con, và dạy con không nên tích trữ tiền vì con đã có ba mẹ lo; con chỉ nên dùng tiền kiếm được để lo cho cha mẹ, giúp bạn bè, giúp người nghèo và cúng dường. Và từ đó trong các khoản làm thiện của tôi luôn có 1 phần nhỏ từ tiền của con gái tôi hùn vào.
Còn sau khi xuất gia thì tôi có những người bạn tốt là Sayalay (Tu nữ 10 Giới) để cùng nhau nỗ lực Thiền định (Samatha)_cả ngày đêm gần như chỉ Thiền. Dễ dàng ăn 1 bữa duy nhất trong 24 tiếng mà không bao giờ mệt hay thèm ăn. Dễ dàng ngủ 4 tiếng mỗi đêm và thức dậy hoàn toàn tỉnh táo để Thiền. Luôn động viên nhau vượt qua khó khăn khi ở nước ngoài (thời tiết không phù hợp, thức ăn không phù hợp, bị bệnh…).
-3🔹Phải có Trực giác mạnh mẽ để luôn thấy đúng 4 bản chất của Pháp (Dhamma) và mọi thứ trong thế gian:
là vô thường (anicca)-luôn sinh rồi diệt, là khổ (dukkha)-bất toại nguyện, là vô ngã (anattā)-không có cái tôi và không thể điều khiển được, là bất tịnh-dơ bẩn-ghê tởm (asubha).
Nhìn ở đâu bạn cũng sẽ thấy đúng 4 bản chất này: thân của bạn chỉ là thứ dơ bẩn và ghê tởm vì chứa toàn phân và máu, thân người bạn yêu thương cũng vậy, tất cả chỉ là asubha-dơ bẩn và ghê tởm chứ không hề đẹp (subha).
Nếu bạn thấy mọi thứ là đẹp là tốt…thì chắc chắn bạn sẽ có tâm Tham (lobha) và không bao giờ có thể phát triển Trí tuệ (paññā) để hết khổ (dukkha).
Nhìn ở đâu bạn cũng sẽ thấy đời này là bể khổ (dukkha): người nào và nhà nào cũng đầy nỗi khổ vì kiếm tiền, vì phục vụ và chăm sóc người thân, vì người thân làm cho đau khổ, vì cuộc đua với danh vọng và sự nghiệp, vì đau bệnh, vì biến cố, vì muốn mà không được, vì nghiệp ác (akusala kamma) trổ quả (như bị phản bội, bị mất của, bị chết sớm, bị bệnh nặng, bị khinh thường, bị tà kiến, khó thành công, nghèo đói, luôn sống trong nợ nần…).
Luôn sống trong Tưởng-nhận thức (saññā) về Khổ (dukkha) và Tưởng-nhận thức (saññā) về Bất tịnh-dơ bẩn (asubha) sẽ giúp bạn giảm tâm Tham-ham muốn (lobha) một cách nhanh chóng và sống gần như không có ham muốn, rất thanh thản và cao thượng, bỏ cái gì cũng dễ dàng mà không cần cố gắng, rất dễ dàng để bỏ mọi thứ và đến Thiền viện Pa Auk Myanmar để xuất gia và sống trọn đời trong bộ y nâu cao quý này.
Nhìn ở đâu bạn cũng chỉ thấy mọi thứ là Vô thường (anicca)-có sinh thì có diệt: đau rồi hết, hạnh phúc và niềm vui có rồi cũng mất, tài sản có đó mất đó, sinh ra cũng phải chết và đôi khi chết sớm hoặc chết thảm do nghiệp ác (akusala-kamma), người thân yêu có đó mất đó, con ngoan rồi hư hỏng, mình vui rồi lại buồn, đang bình yên thì gặp biến cố...
Thấy rõ Vô thường (anicca)-luôn sinh rồi diệt, sẽ diệt được tâm Vô minh-si mê (moha) và diệt được sự ngã mạn-tự cao-thấy mình giỏi (māna, đây cũng thuộc tâm tham-lobha).
-4🔹Phải tạo môi trường-duyên (paccayo) thuận lợi cho Trí tuệ (paññā):
Người có cơ hội sống, quan sát và va chạm trong các hoàn cảnh có khổ-có vui thì sẽ dễ phát sinh Tưởng-nhận thức(saññā) về Vô thường, khổ, vô ngã.
Đó là lý do mà Phật Chánh đẳng giác (Sammāsambuddha, như Phật Thích Ca_Buddha Sakya) chỉ tái sinh tại nước Ấn độ của trái đất chúng ta. Vì ở trái đất này con người có đủ mức độ khổ-vui để phát sinh ước nguyện vĩ đại và nỗ lực thành Phật.
Phải luôn sống vắng lặng dù bạn đang ở bất cứ môi trường nào: trong Thiền viện, ở nơi có đông người, trong gia đình, trong công ty…chỉ nói chuyện khi thật sự cần thiết.
Còn lại bạn phải luôn chú tâm giữ Chánh niệm (sati) trên đề mục Thiền định (samatha) của mình
Giữ Chánh niệm (sati) mạnh mới giữ được Giới mạnh, và Thiền định (Samatha, Samadhi) mới củng cố cho Giới Nguyên thuỷ (Sīla Theravāda) trở nên mạnh, Giới cũng làm nền tảng cho Thiền dịnh_Định lực (Samadhi) mạnh hơn.
Và khi có đủ sự vắng lặng+Giới Nguyên thuỷ (Sīla Theravāda) trong sạch và mạnh mẽ+Định lực (samādhi) mạnh mẽ thì Tuệ (paññā) rất dễ phát sinh để tâm nhìn ra dễ dàng 4 bản chất của mọi thứ là vô thường-khổ-vô ngã-bất tịnh (anicca-dukkha-anattā-asubha).
Khi Trí Tuệ (paññā) luôn bám vào 4 bản chất này thì không có ham muốn-tâm tham (lobha) hay sân hận-tức giận-ganh ghét (thuộc tâm sân-dosa) nào có thể xâm nhập được vào tâm bạn.
Bạn luôn sống trong sự cao thượng, thanh thản, không ham muốn, hạnh phúc luôn luôn, không có gì ràng buộc là và làm khổ được bạn, bạn muốn bỏ cái gì thì sẽ bỏ rất dễ và rất dứt khoát.
Con đường của bạn sẽ luôn thênh thang và Trí tuệ (paññā) rất vững chắc, rất mạnh mẽ, xuyên thấu vào mọi thứ-dễ dàng nhìn ra bản chất của mọi người và mọi thứ.
Một sự thật đau lòng hiện nay là khi một người lùi bước trên con đường Bát thánh đạo-con đường Giải thoát-hết khổ, thì việc quay trở lại rất khó khăn.
Ngay cả những người đã xuất gia vài chục năm; ngay cả các Sayadaw (Thiền sư) đã từng đắc các Bậc thiền (Jhāna) và có tuệ Vipassanā vẫn đang đi lùi-họ càng ngày càng bộc lộ rõ sự ham muốn-tâm tham (lobha) với tiền, với gái gian xảo mà giỏi nịnh hót_(kể các các cô Tu nữ-sayalay), thoã mãn với sự phục vụ (cũng là tâm tham-lobha).
Họ đi lùi vì Họ không đủ lực nội tại để trở lại con đường vững chắc của Bậc Trí đang đi (như các Sayadaw đang là Bậc Thánh-Ariya).
*Sự thụt lùi-thoái trào-suy thoái của những người này là vì:
-1🔸Nguyên nhân đầu tiên là nghiệp (kamma) và dư năng lực tâm.
Khi một vị Sayadaw phạm Tà kiến (micchā-diṭṭhi) hay thực hiện các hành động thiếu trí tuệ (duppaññā) như là dành cả buổi để ngồi xếp nến thành hình trong các buổi lễ chứ không dành thời gian đó để ngồi Thiền…thì đó là kết quả của nghiệp ác cũ chưa trả hết trong các kiếp sống trước nên nghiệp đó còn năng lực kéo tâm họ đi sai hướng:
thay vì tâm (citta) đi theo hướng Trí tuệ để yêu Thiền định (samatha) và luôn sống vắng lặng thì họ sẽ làm các hành động ngược lại như tụ tập với mọi người để làm việc này việc nọ không cần thiết mà nghĩ nó là việc làm công đức (puñña)…
Thói quen tâm vi tế như tham, sân, si (lobha, dosa, moha) vẫn tồn tại từ các kiếp sống trước kéo dài đến kiếp sống này của họ, đặc biệt trong môi trường có cám dỗ dai dẳng như: họ có chức quyền trong Thiền viện (viharā) nên dễ sinh tâm thoã mãn và tự cao, họ thường được nghe lời nịnh hót của những người gian xảo nên họ luôn thấy mình giỏi (nên họ dần tăng tâm Tham-lobha), họ luôn dùng điện thoại do tham gia và tạo quá nhiều Group nên tâm dễ dàng dính vào Tham/sân/si/tà kiến (lobha, dosa, moha, micchā-diṭṭhi).…
Thói quen vi tế nghĩa là các thói quen mà bạn làm hàng ngày sẽ dần hình thành 1 cách xử sự chung và làm tăng Tham/sân/si mà bạn không nhận ra.
VD như bạn rất dễ nóng giận (tâm sân-dosa) thì thói quen sân (dosa) đó sẽ luôn nằm chờ sẳn để xuất hiện khi bạn gặp hoàn cảnh trái ý, và nếu bạn không có Trí tuệ để nhận ra tâm bất thiện (akusala citta) của mình thì nó sẽ nổi lên mạnh mẽ.
Và rất nhiều người xuất gia dù là vài chục năm, dù là Sayadaw cũng đang bị các thói quen vi tế này chi phối, vì họ luôn sống trong môi trường dễ dàng cho nó phát triển.
Và điều nguy hiểm khi để mình đi lùi (tăng Tham/sân/si) đó là: dù một người bị người Trí tuệ phê bình là đang có nhiều tâm Tham-sự tự cao do có chức quyền lớn, và vị ấy nhận ra lỗi của mình, nhưng lực tâm vị ấy thường không đủ mạnh để vượt qua lực kéo của nghiệp ác (akusala-kamma) của vị ấy.
Do đó mà vị ấy vẫn làm những việc sai lầm-những việc tà kiến (micchā-diṭṭhi), những việc thiếu Trí tuệ (duppaññā) mà tưởng là cần thiết như là:
thích đi khắp nơi giảng Pháp độ người trong khi bản thân mình thì đã mất Bậc Thiền (Jhāna) và Tuệ Vipassanā yếu_(nên dễ dàng thích tiền và thích gần gũi các cô Tu nữ-Sayalay gian xảo…).
Người không đắc các Bậc Thiền và nhập Thiền (Jhāna) vào lúc chết thì cái chết đó rất nguy hiểm vì dễ dàng đoạ do tâm bám vào Tham/sân/si. Đây là điều rất đáng sợ.
Và khi không thật sự chứng đắc cao trong các Bậc thiền (Jhāna) và tuệ Vipassanā thì lời dạy đó chỉ là lời nói suông chứ không bao giờ có thể hiểu sâu sắc Chánh pháp (Sammā Dhamma).
Vì Chánh pháp của Phật Thích Ca liên quan đến các Bậc Thiền (Jhāna) và Tuệ Vipassanā sâu mà người không chứng đắc không thể hiểu được, không thể đọc Kinh (sutta) rồi suy luận mà hiểu đúng được.
-2🔸Nguyên nhân thứ hai là nhận thức và thực hành phải biến thành Tuệ (paññā).
Nhiều người có nhận thức nên biết nhận lỗi khi bị phê bình là thiếu Trí tuệ (duppaññā) hay phóng dật (uddhacca)-thân và tâm lăng xăng, nhưng nhận thức đó của họ chưa thành Tuệ.
Họ biết điều sai nhưng không đủ Trí tuệ (paññā) thâm nhập vào vô thường/khổ/vô ngã/bất tịnh để tự giác loại bỏ những hành vi thiếu trí của mình.
Thói quen xấu (như luôn thấy mình giỏi…) và môi trường nhiều cám dỗ (như có chức quyền, luôn được nịnh hót, có nhiều người phục vụ, luôn dính vào điện thoại…) tiếp tục kéo những người xuất gia và các Sayadaw (Thiền sư) này vào hành vi sai, dù họ có tĩnh lặng hơn trước sau khi nghe phê bình.
Nói cách khác, nhận thức không đồng nghĩa với khả năng thực hành đúng, trừ khi Nguyện lực, Trí tuệ về vô thường/khổ/vô ngã/bất tịnh và Môi trường tốt hội tụ đủ.
-3🔸Nguyên nhân thứ ba là sức mạnh nội tại trong tâm họ.
Nếu những người đang đi lùi này (đang tăng tâm Tham/sân/si/phóng dật..) muốn quay trở lại con đường sáng suốt của Bậc Trí-con đường sống không ham muốn, đòi hỏi một sức mạnh nội tại mạnh mẽ đồng thời hội tụ nhiều yếu tố như:
Đức tin (saddhā) vững vào Phật Thích Ca và Thiền định (samatha); Nguyện lực rõ ràng và luôn như kim chỉ nam trong từng giây phút; Tuệ (paññā) trực nhận về vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh; Luôn sống buông xả-không thích ghét (upekkha); Và nhẫn nhục-nhẫn nại (khanti) qua thử thách của các hoàn cảnh trong đời sống.
Bị người có Trí tuệ chê mình là thiếu trí (duppaññā), là phóng dật (udhacca)-thân và tâm lăng xăng…cũng là một hoàn cảnh để thử thách vị ấy có đủ nhẫn nại (khanti), đủ Trí tuệ (paññā) để nhận ra sai lầm của mình để vượt qua và phát triển Trí tuệ mạnh hơn hay không.
Nhiều vị Sayadaw (Thiền sư) không hội tụ đủ những yếu tố này cùng lúc, nên dù nhận ra mình đang lùi bước (đang tăng tâm Tham/sân/si/phóng dật..), họ vẫn khó đi trở lại con đường vững chắc như cách người Trí dang đi, và chắc chắn họ sẽ phải trả giá cho việc nuôi dưỡng tâm Tham/sân/si/phóng dật…của chính mình.
Họ sẽ chỉ có thể quy tụ xung quanh mình những con người cũng nhiều tâm tham/sân/si như họ_mọi người đều không yêu Thiền định (samatha)-mỗi ngày chỉ dành rất ít thời gian để ngồi Thiền nên họ không bao giờ bước vào được con đường của bậc Trí-con đường của sự chứng đắc các Bậc Thiền (Jhāna) và đắc các tầng tuệ sâu của Vipassanā, luôn sống trong sự không ham muốn…
*Kết luận là, việc lùi bước (tăng tham/sân/si) trong đời xuất gia rất khó phục hồi vì:
+Nghiệp ác cũ từ các đời sống trước còn mạnh,
+Thói quen tâm vi tế vẫn tồn tại: luôn tự hào bản thân, thích nghe lời khen, thích được phục vụ, ghét bị phê bình, không muốn thừa nhận mình sai…,
+Nhận thức chưa chuyển thành Trí tuệ trực tiếp (paññā) để luôn thấy mọi thứ là vô thường (anicca), là khổ (dukkha) và vô ngã (anattā) và bất tịnh-dơ bẩn-ghê tởm (asubha),
+Môi trường và cám dỗ bên ngoài liên tục kéo họ đi vào tâm Tham/sân/si/phóng dật (lobha, dosa, moha, uddhaca)...
Ngược lại, nếu họ hay bất cứ ai hội tụ đủ:
-1.Đức tin (saddhā) mạnh mẽ,
-2.Nguyện lực vững vàng,
-3.Trực giác nhạy bén để thấy rõ 4 bản chất cuộc đời (là vô thường/khổ/vô ngã/ bất tịnh-dơ bẩn-ghê tởm),
-4.Tuệ tự phát từ trải nghiệm các hoàn cảnh trong cuộc sống chính mình hoặc quan sát người khác,
-5.Luôn sống vắng lặng và buông xả (upekkha) mọi thứ một cách tự nhiên…
Thì việc người ấy luôn tiến lên trên con đường Trí tuệ (paññā) sẽ là sự thật và vị ấy sẽ vượt qua được sự thoái trào tạm thời của mình.
Ảnh: Thiền sư (Sayadaw) Kovida-Bậc Thầy không tỳ vết, Bậc Trí tuệ thâm sâu chỉ đứng sau Đại thiền sư Pa Auk (Sayadawgyi Pa Auk).
Nguồn: Panna Cari Pa Auk