06/05/2025
CHA ĐẺ CỦA PHÂN TÂM HỌC
Sigmund Freud (phát âm tiếng Đức Áo: [ˈziːgmʊnd frɔʏd] / FROYD), tên khai sinh là Sigismund Schlomo Freud, là một nhà thần kinh học người Áo và là người sáng lập Phân tâm học. Ông sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856 tại thị trấn Freiberg ở Morava, trước kia thuộc Áo, nay là Příbor là một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Moravskoslezský kraj, ở phía đông Cộng hòa Séc.
Cha ông là Jacob Freud, một thương nhân Do Thái buôn bán len và lông thú. Jacob kết hôn lần thứ ba với một phụ nữ trẻ, kém ông tới 20 tuổi, tên là Amalie Nathanson. Họ có với nhau 8 người con và đứa đầu lòng là Sigi (tên thân mật của Sigmund Freud trong gia đình).
Sigi là người mà mẹ thương yêu và cưng chiều nhất. Cậu được mẹ gọi với cái tên rất thân thương “Mein goldener Sigi” (cục vàng Sigi của mẹ). Bản thân Sigi cũng luôn quyến luyến và có nhiều cảm xúc rất đặc biệt với mẹ. Có lẽ vì thế mà về sau Freud tin rằng mối quan hệ mẹ con là sợi dây kết nối quan trọng nhất giữa người với người. Ông từng nói, kẻ nào hồi bé là con cưng của mẹ thì suốt đời sẽ có cảm tưởng mình là kẻ chinh phục, có lòng tự tin rằng mình luôn luôn thành công và niềm tin đó thường thật sự dẫn họ đến thành công.
Khi Sigmund lên 1 tuổi, mẹ cậu sinh em bé. Điều này khiến cậu vô cùng bực tức và chỉ mong em mình chết đi. Trớ trêu thay, em của Sigmund mất khi mới 8 tháng tuổi. Phức cảm tội lỗi về cái chết của người em xuất hiện, ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển tâm lí của Freud sau này. Phải mất nhiều năm, khi đã trưởng thành, Freud mới nhận ra rằng cái chết của em trai không phải là lỗi của ông và phức cảm thù hận ngày nhỏ là điều có thể hiểu và chấp nhận được.
Năm Sigi 3 tuổi, Jacob phá sản. Gia đình dọn đến sống ở Leipzig trong một năm thì rời tới Wien, nơi Freud sẽ gắn bó gần 80 năm tiếp theo. Tuy lớn lên trong gia cảnh khó khăn, nhưng Freud là một học sinh chuyên tâm, chăm chỉ, luôn đạt thành tích đứng đầu lớp và là niềm kì vọng của gia đình và thầy cô. Khi tốt nghiệp phổ thông, Freud không chỉ thành thạo tiếng Hi Lạp, Latin, Hebrew và Đức, mà còn tự học tiếng Anh, tiếng Pháp, và có kiến thức cơ bản về các ngôn ngữ Tây Ban Nha và Ý.
Với mong muốn tìm hiểu bản chất con người, mùa thu năm 1873, Freud đăng kí học Y khoa tại Đại học Wien, đến ngày 30 tháng 3 năm 1881 tốt nghiệp với đề tài “Tủy sống của các loài cá cấp thấp”. Nhưng điều kiện tài chính không cho phép Freud trụ lại trường đại học lâu hơn. Ông buồn bã kiếm một công việc tại Bệnh viện Đa khoa Wien và làm tại đó trong 3 năm. Ở vị trí trợ lí cho nhà giải phẫu não bộ nổi tiếng Theodor Maynert, Freud tiếp tục nghiên cứu về hệ thần kinh của cá, chủ yếu là cá chình (lươn biển). Cũng trong thời kì này, ông tiến hành thực nghiệm về co***ne mà ông tin là hữu dụng trong điều trị hysteria. Ông đọc được một tài liệu viết về một bác sĩ quân y Đức sử dụng co***ne để tăng cường thể lực và sức chịu đựng cho binh sĩ. Ông quyết định dùng thử. Freud nhận thấy mình trở nên khoẻ khoắn, khả năng làm việc tăng lên. Bấy giờ, một đồng nghiệp của Freud là Ernst von Fleischl-Marxow, một bác sĩ giỏi, nghiện morphin. Freud cho rằng co***ne có thể chữa được chứng nghiện morphin nên khuyên Fleischl-Marxow dùng thử. Freud đã đúng: Fleischl-Marxow hết nghiện morphin. Vị bác sĩ nọ chuyển sang nghiện co***ne và nhanh chóng suy sụp, lâm vào tình trạng lú lẫn, bị kích động, lo lắng, ảo giác,... cuối cùng chết sau đó vài năm.
Năm 1884, Freud viết bài ca ngợi co***ne, khuyên mọi người sử dụng và cũng mời vợ chưa cưới Martha dùng thử. Trong các bài viết của mình, ông giấu nhẹm chuyện về Fleischl-Marxow và khi này kí tên Sigmund. Về sau, Freud bị lên án gay gắt.
Năm 1885, ông tới Paris, tại đây ông gặp Jean-Martin Charcot, người được mệnh danh là “Napoléon của chứng hyteria”. Nhờ chuyến đi này, Freud đã “sáng mắt” ra rất nhiều. Ông hiểu biết hơn về chứng hysteria và học thêm kĩ thuật thôi miên và ám thị.
Nhằm lấy lại danh dự trong giới khoa học sau những biến cố xung quanh co***ne, Freud thuyết phục đồng nghiệp Josef Breuer công bố một số nghiên cứu trường hợp. Năm 1895, tác phẩm “Studien über Hysterie” (Nghiên cứu rối loạn phân li) xuất bản, lần đầu tiên xuất hiện khái niệm “Psychoanalyse” (Phân tâm học). Nhưng sau công trình này, quan hệ giữa Freud và Breuer đỗ vỡ.
Những năm 1890 là thời kì khó khăn đối với Freud, ông rơi vào khủng hoảng và cô độc. Năm 1896, sau cái chết của cha, ông bắt đầu tự phân tích giấc mơ. Freud tự trào rằng ông là bệnh nhân tốt nhất của chính mình.
Năm 1900, Freud cho ra mắt cuốn sách “Die Traumdeutung” (Diễn giải các giấc mơ). Sau đó, nhiều công trình khác được trình bày, tạo cơ sở vững chắc cho Phân tâm học, tiếp đến là sự kiện Hội Phân tâm học Quốc tế được thành lập vào năm 1910,... Trong thập kỉ 20, Freud là ngôi sao lớn tầm cỡ quốc tế và học thuyết của ông được đông đảo quần chúng biết đến.
Ngày 3/3/1907, lần đầu tiên S. Freud gặp Carl Jung, họ nói chuyện suốt 13 giờ đồng hồ mà không hề ngừng nghỉ, như thể hai người bạn tâm giao đã lâu chưa hội ngộ. Mối quan hệ kéo dài 6 năm, trong khoảng thời gian từ năm 1907 đến 1913, họ trao đổi tổng cộng 360 bức thư. Những bức thư này là bằng chứng về mối quan hệ trí tuệ sâu sắc giữa hai thiên tài Freud và Jung, đồng thời là tư liệu quý giá về lịch sử ban đầu của Phân tâm học.
Thời gian xảy ra Thế chiến I, nội bộ Phân tâm học chia rẽ. Cá nhân Freud lại trải qua 33 lần phẫu thuật ung thư vòm họng, ông không còn nói được và khả năng đi lại bị hạn chế. Tuy nhiên, từ những trải nghiệm đó, ông bổ sung thêm các luận điểm về xung năng sống (Eros), xung năng chết (Thanatos) và một số cơ chế phòng vệ (defense mechanisms).
Đến năm 1938, Áo sát nhập vào Đức quốc xã, Freud phải chạy sang Anh. Khi cận kề cái chết vì bệnh tật, được sự chấp thuận của con gái Anna Freud, ông đề nghị bác sĩ cho ông được chết bằng morphine liều cao. Ông qua đời tại London, ngày 23 tháng 9 năm 1939.
Căn nhà nơi ông nghỉ ngơi những ngày tháng cuối đời, tại số 20 Maresfield Gardens, Hampstead, London, nay trở thành Bảo tàng Freud London. Đồng thời, tại Wien, người ta cho xây dựng Bảo tàng Freud Wien tại Berggasse 19, Alsergrund.
Ngày nay, Phân tâm học cùng với tên tuổi của Sigmund Freud đã quá quen thuộc trong các lĩnh vực như Tâm lí học, Triết học, Tôn giáo học, Lý luận văn học,... Thật khó mà tưởng tượng thế kỉ XX sẽ ra sao nếu thiếu ông, một trong số ít các nhà tư tưởng đã làm thay đổi cái nhìn của toàn bộ nhân loại!
📚 Tài liệu tham khảo:
1. Storr, A. (2016). Dẫn luận về Freud (Thái An, dịch). Nhà xuất bản Hồng Đức. (Tác phẩm gốc xuất bản năm 1989).
2. Nguyễn Sinh Phúc. (2013). Các trường phái trong tâm lí học lâm sàng (tr. 9–13). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Precht, R. D. (2016). Tôi là ai – nếu vậy thì bao nhiêu?: Một chuyến du hành triết luận (Trần Vinh, Trans., tr. 111–125). Nhà xuất bản Thế Giới.
4. TS. Nguyễn Văn Tịnh (Chủ biên), ThS. Nguyễn Thị Thu Phương, (2017). Các nhà tâm lí – giáo dục học tiêu biểu thế giới (tr. 85–90). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Boeree, C. G. (n.d.). Personality Theories.