Tu Viện Khánh An

Tu Viện Khánh An Chào mừng Bạn đến trang nhà Tu viện Khánh An - Việt Nam
(1)

Miền Trung thương yêu,Gửi đến những người con của dải đất miền Trung yêu thương, khu vực nhiều tuần qua đã oằn mình hứng...
05/12/2025

Miền Trung thương yêu,

Gửi đến những người con của dải đất miền Trung yêu thương, khu vực nhiều tuần qua đã oằn mình hứng chịu mưa giông, bão lũ. Nước lũ đi qua nhưng nỗi đau thì ở lại, bao mái nhà bị cuốn trôi, bao ruộng vườn hoang tàn và có những sinh mạng đã vĩnh viễn nằm lại trong dòng nước dữ. Chỉ những ai đã sống với miền Trung, lớn lên cùng nắng gió khắc nghiệt nơi này mới hiểu sâu sắc được nỗi mất mát ấy.

Những ngày qua, vô số hình ảnh được chia sẻ trên mạng xã hội như những tiếng nấc bật lên từ lòng đất mẹ. Nhìn cảnh thiên nhiên nổi giận, ta không thể không tự hỏi rằng phải chăng con người đã quá vô tâm. Ta đã quên gìn giữ rừng xanh, xả rác xuống sông biển, làm tổn thương chính vòng tay nuôi dưỡng của mẹ thiên nhiên… và rồi mẹ đành phải lên tiếng bằng những cơn thịnh nộ để ta tỉnh thức mà nhìn lại mình. Nhưng giữa màu xám của bùn đất và nước mắt, ta lại nhìn thấy ánh sáng của tình người. Khi miền Bắc gặp nạn, miền Trung, miền Nam cùng nhau hướng về chia sẻ và khi miền Trung chìm trong biển nước, cả nước lại một lòng một dạ hướng về khúc ruột thân yêu. Từng đoàn xe chất đầy yêu thương nối nhau vượt hàng trăm cây số, những chiến sĩ bộ đội, công an và biết bao tình nguyện viên trẻ đã không quản hiểm nguy, thức trắng đêm vật lộn với dòng nước lũ để mang được chút hơi ấm đến từng mái nhà. Đặc biệt, những bóng áo nâu, áo lam âm thầm lên đường mang theo tấm lòng từ bi, không quản mưa gió, lội giữa dòng nước xiết để đưa từng phần quà đến tay bà con. Trong giông bão, lòng từ bi ấy càng sáng hơn bao giờ hết.

Giờ đây, cơn lũ đã rút nhưng những nỗi đau còn đọng lại thì không thể đo đếm. Mong trời thôi mưa để nước mắt bà con cũng thôi rơi; mong đất lại khô để đôi chân bà con vững vàng đứng dậy và mong trái tim mỗi người lại mạnh mẽ để viết tiếp câu chuyện vượt lên nghịch cảnh như bao đời miền Trung vẫn vậy.

Cố lên nhé, đồng bào của tôi!
Sẽ không ai bị bỏ rơi.
Cả dân tộc đang hướng về miền Trung bằng tất cả yêu thương, chia sẻ và nguyện cầu.

Tuệ Đăng

━━━━━━━━━━━━━━━━━
Tu Viện Khánh An 🪷
Địa chỉ: 1055/3D Võ Thị Thừa, phường An Phú Đông, TP.HCM.
☎️ Điện thoại: 0869.569.102
📧 Email: tuvienkhanhanq12@gmail.com
📱 Fanpage: https://www.facebook.com/tuvienkhanhan1055
▶️ YouTube: https://youtube.com/
🌐 Website: http://tuvienkhanhan.vn

PHÁP THOẠI TẾT CƠM MỚI - Thầy Trí Chơn| Lễ Hạ nguyên rằm tháng 10 PL.2569Nhân ngày trăng tròn tháng 10 năm Ất Tỵ - PL.25...
05/12/2025

PHÁP THOẠI TẾT CƠM MỚI - Thầy Trí Chơn
| Lễ Hạ nguyên rằm tháng 10 PL.2569

Nhân ngày trăng tròn tháng 10 năm Ất Tỵ - PL.2569, còn gọi là lễ Hạ nguyên hay Tết Cơm Mới, đại chúng trở về Tu viện Khánh An tham dự lễ và lắng nghe thời pháp thoại an lành từ Thầy Viện chủ.

Theo truyền thống dân gian, một năm có ba dịp lễ lớn gắn với tiết trời và mùa màng: rằm tháng Giêng là lễ Thượng nguyên - ngày trăng tròn đầu tiên của năm, người dân thường đi chùa cầu an; rằm tháng 7 là Trung nguyên và rằm tháng 10 là Hạ nguyên. Trong Đạo giáo, ba ngày lễ này tương ứng với ba vị quan cai quản ba cõi: Thiên quan (trời), Địa quan (đất) và Thủy quan (sông biển). Những quan niệm này, theo dòng chảy văn hóa đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tín ngưỡng của người Việt.

Nhìn từ góc độ Phật giáo và văn hóa dân tộc, lễ Hạ nguyên mang một ý nghĩa đặc biệt đó là dịp để mỗi người trở về gốc rễ của nền văn minh lúa nước, cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Dù xã hội hôm nay đang phát triển mạnh mẽ bằng khoa học công nghệ nhưng nền tảng đời sống vẫn gắn chặt với hạt lúa, ruộng đồng. Từ bao đời, ông bà ta “ở trong gốc rạ mà ra”, nền văn minh lúa nước hun đúc nên nếp sống, tâm hồn và văn hóa Việt. Hiện nay, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Hai vựa lúa lớn là đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ không chỉ nuôi sống dân tộc mà còn vươn ra toàn cầu, phản ánh rõ giá trị văn hóa và bản sắc của đất nước.

Ngày xưa, ông bà ta làm lúa theo hai vụ chính. Vụ đầu gọi là đông - xuân, bắt đầu gieo mạ từ cuối đông của năm trước sang đầu xuân năm sau và chỉ khoảng ba tháng là có thể gặt. Vụ thứ hai là vụ hè - thu, hoàn mãn vào giữa năm và khi vụ hè thu kết thúc cũng là lúc khép lại một năm mùa màng. Một mùa lúa ba tháng, hai mùa sáu tháng và nửa năm còn lại ông bà thong thả trồng rau, bắp, khoai, hoa… rồi ở nhà sum vầy cùng con cháu, thảnh thơi bên hồ cá, vườn sen, cuộc sống mộc mạc mà bình an, hạnh phúc.

Chỉ mới rằm tháng 10 nhưng mùa vụ đã hoàn mãn, cho nên, lễ Hạ nguyên cũng được xem như lễ tạ ơn. Thời điểm này gạo mới vừa từ ruộng về, được giã ra còn thơm mùi mạ xanh, trắng mà phảng phất hương đồng nội như làm ấm cả xóm làng. Thành quả ấy là của bao mồ hôi, của công cày bừa, gieo cấy. Khi có gạo mới, việc đầu tiên người xưa làm là nhớ đến Phật, Pháp, Tăng, nhớ đến tiên tổ, nhớ ơn đất trời. Bánh tét nếp mới, bát cơm gạo mớ... với người xưa là niềm vui lớn, bởi những tháng ngày thiếu thốn, được ăn cơm mới thật quý biết bao vì thuở xưa, chỉ đúng rằm tháng 10 mới được ăn cơm mới và từ hôm sau trở đi lại lấy gạo cũ của năm trước để dùng. Cuộc sống ngày ấy còn nhiều khó nhọc, thiên tai mất mùa luôn rình rập nên tổ tiên mình phải chắt chiu, tích lũy, có gạo mới lại đem cất vào bồ, xoay vòng năm này sang năm khác, còn bữa ăn hằng ngày thì dùng gạo cũ. Vì vậy, ngày rằm Hạ nguyên trở thành cơ hội hiếm hoi để thưởng thức một bát cơm mới dẻo thơm của cả một nền văn minh lúa nước. Và vì được ăn một bát cơm mới là niềm hạnh phúc lớn nên ngày này được gọi là ngày Tết. Chữ “Tết” vốn đọc trại từ chữ “tiết”, nghĩa là thời tiết, tiết khí. Một năm của người Việt có rất nhiều Tết: Tết Nguyên Đán, Tết Thượng Nguyên, Tết Nguyên Tiêu, Tết Đoan Ngọ, Tết Trùng Thất, Tết Trung Thu và Tết Hạ Nguyên... Đồng thời, “Tết” cũng mang nghĩa vui mừng, hân hoan vì được mùa hay có những thành tựu trong đời sống.

Đối với lễ Hạ nguyên, ý nghĩa thứ hai quan trọng không kém đó là đây là ngày tri ân - báo ân. Đó là dịp để nhớ ơn đất trời, tổ tiên và tất cả những ân nhân mà ta đã nương tựa. Thành quả mà ta có hôm nay, dù nói là của mình nhưng thực ra ta chỉ là một hạt bụi nhỏ bé giữa cuộc đời rộng lớn, nếu không có trời đất che chở, không có bao duyên lành hội đủ thì cũng chẳng có gì có thể thành hình. Lễ Hạ nguyên nhắc ta sống khiêm cung, biết ơn, thấy được sự nương tựa lẫn nhau của vạn vật và trân quý những điều bình dị nuôi dưỡng đời sống mỗi ngày.

“Thiên địa phú tải chi ân, nhật nguyệt chiếu lâm chi đức”, với “thiên phú địa tải” nghĩa là trời thì bao trùm, che chở; đất thì nâng đỡ, cưu mang. Người xưa vì thế mới gọi “trời cha - đất mẹ”. “Nhật nguyệt chiếu lâm chi đức” là ân đức của mặt trời và mặt trăng - ánh sáng và năng lượng nuôi dưỡng muôn loài. Tất cả đều là ân đức lớn lao của thiên nhiên. Chúng ta thường nhớ ơn cha mẹ, ơn thầy cô, ơn những người đã giúp đỡ mình. Nhưng lại có những điều mầu nhiệm diễn ra từng phút từng giây, nếu không có ta không thể sống, ấy vậy mà ta ít khi để tâm đó là ơn của sơn hà đại địa, đất trời bao la. Mỗi khi mở mắt ra, ta có bầu trời xanh, có ánh mặt trời ấm áp, có trăng sáng, có không khí trong lành, có cỏ cây hoa lá, đất mẹ nâng bước chân mình. Chúng ta nương trên mặt đất mà sống và những hạt lúa nuôi dưỡng chúng ta cũng từ đất mà sinh trưởng. Mọi thứ đều bắt nguồn từ đất mẹ, vì vậy ngày rằm Hạ Nguyên được gọi là lễ tạ ơn.

Là người hiện hữu trên cuộc đời này, ta phải luôn sống trong tâm niệm tri ân và báo ân: biết ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục, biết ơn thầy cô đã dạy dỗ, biết ơn Tam Bảo đã chỉ lối soi đường và biết ơn tất cả những người đã nâng đỡ, giúp ta vượt qua khổ nạn. Nhưng biết ơn thôi chưa đủ mà ta phải đền đáp, đó là tinh thần sâu sắc mà Đức Phật dạy và cũng là lời nhắc nhở của tổ tiên bao đời: người biết ơn là người biết sống đẹp, biết trở về với cội nguồn của nhân phẩm và hạnh phúc. Tuy nhiên, đó mới chỉ là phần “ngọn” còn đền ơn tận “gốc” chính là trau dồi bản thân, tu tập để tâm hướng thiện, sống sao cho có ý nghĩa và giá trị, mang lại lợi ích cho đời. Mọi sự vật hiện hữu đều có giá trị của nó và con người cũng vậy. Sống thế nào để tạo dựng niềm tin, để người khác cảm thấy bình an, góp một phần nhỏ vào hạnh phúc chung, chỉ vậy thôi đã là báo ân rồi.

Ngày hôm nay, nhắc ta nhớ rằng giữa bầu trời bao la vô tận này luôn có trời, có trăng, có đất mẹ cưu mang và nuôi dưỡng. Sống biết ơn là căn bản nhưng trong thời đại hôm nay, bảo vệ môi trường còn là trách nhiệm cấp thiết của mỗi người. Ta lau nhà, quét sân là chăm sóc cho nơi ở của mình nhưng trách nhiệm ấy còn phải mở rộng ra đường làng, phố thị, đất đai, nguồn nước, không khí đang bị ô nhiễm, thậm chí ô nhiễm cả âm thanh. Thế nên, mỗi hành động giảm thiểu tác hại lên môi trường dù nhỏ nhất cũng là đền ơn đất trời. Chỉ cần ăn một chiếc bánh rồi bỏ vỏ đúng nơi, chỉ cần hạn chế xả thải, giữ gìn sạch đẹp không gian chung, ý thức bảo vệ môi sinh, như thế đã là tri ân, đền ơn trời đất, đền ơn môi trường, đền ơn sự sống mà ta đang thọ hưởng mỗi ngày.

Ý nghĩa thứ ba của lễ Hạ nguyên là thời điểm gần như khép lại một năm, tạo cơ hội để mỗi người quán chiếu và nhìn lại chính mình: Trong suốt một năm qua, ta đã làm được những gì, những điều thiện nào đã gieo, những điều bất thiện nào ta đã lỡ gây. Quay về soi rọi để biết mà sửa, hoàn thiện bản thân, xây dựng cho mình một nhân cách hữu dụng và vững chãi hơn. Cái “biết” rất quan trọng, ta phải đủ can đảm nhìn vào những phần vụng về của chính mình để chuyển hóa. Trong tâm hồn mỗi người đều có những góc khuất, những chỗ yếu kém mà ta thường cố tình che đậy, sợ người khác nhận ra. Người xưa dạy “Thà ngu một lần để rồi cả đời được khôn, còn giấu cái ngu thì mãi mãi không bao giờ thành trí.” Trong việc học, ta có thể học từ người lớn hơn mình, người ngang mình, thậm chí từ những người nhỏ tuổi hơn; học nơi những ai có chuyên môn, học từ chính cuộc đời quanh mình. Có rất nhiều bài học quý, rất nhiều người thầy hiện diện mỗi ngày, nếu biết thực tập thì mỗi ngày ta sẽ trưởng thành thêm một chút, sáng ra thêm một chút, còn nếu cứ che giấu khiếm khuyết, cho rằng mình cái gì cũng biết thì ta sẽ mãi mịt mờ trong vô minh, ôm ấp cái tôi ngày một lớn và chịu đựng phiền não không dứt.

Cuối lời, Thầy nhắn nhủ đại chúng ba điều thông qua lễ Hạ nguyên:
- Điều thứ nhất: Hãy gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Nền văn minh lúa nước nuôi dưỡng ông bà ta từ buổi hồng hoang, đời sống gắn bó với cây lúa đã hình thành nên nếp sống, tâm hồn và bản sắc văn hóa Việt. Trân trọng cội nguồn ấy cũng chính là gìn giữ căn tính dân tộc trong thời đại hội nhập hôm nay.
- Điều thứ hai: Mỗi ngày nâng lên một bát cơm, ta nâng cả một trời ân nghĩa. Trong bát cơm ấy có công người gieo hạt, cày cấy, gặt hái, có ân đất trời cùng vô số yếu tố nuôi dưỡng. Khi sống với tâm biết ân - báo ân, ta sẽ có mặt trong hạnh phúc và bình an.
- Điều thứ ba: Không có gì tự tồn tại độc lập đơn lẻ, mọi pháp đều do duyên sinh. Để có một hạt lúa thì vô số nhân duyên hội tụ, để có sự sống hôm nay, vô vàn điều kiện đang nâng đỡ. Cần thấy được sự tương quan tương duyên giữa mình với con người, môi trường xung quanh, với trời đất bao la và nhận ra sự tương tác nhiệm mầu luôn hiện hữu quanh mình.

Đại chúng cần nhớ khi có cái mới đừng quên cái cũ. Cái mới thường thơm thảo, tươi tắn nhưng những điều cũ nếu được chăm sóc, làm mới cũng có thể trở nên giá trị. Cuộc sống không phải đợi đến một năm để nhìn lại mà mỗi sáng thức dậy, ta mỉm cười và bắt đầu một ngày mới, mỗi tối khép mắt lại, ta lặng lẽ hỏi mình: hôm nay ta đã làm được gì lợi lạc cho bản thân, gia đình, xã hội và cuộc đời. Mỗi ngày đều có thể là một mùa “cơm mới” nếu ta biết soi chiếu, học hỏi, vun bồi điều lành và chuyển hóa điều chưa hay. Thực tập được như vậy, ta sẽ giảm đi nhiều lỗi lầm, nuôi lớn được những hạt giống tốt đẹp và làm cho đời sống của mình ngày một tươi đẹp hơn.

Bên cạnh những lời khuyến tấn đại chúng cùng tinh tấn tu tập, Thầy gửi gắm niềm thương sâu sắc đến bà con miền Trung đang oằn mình trong bão lũ. Thầy nhắc rằng chỉ cần khởi tâm nhớ nghĩ, hướng lòng về những người đồng hương đồng đạo đã là một sự tri ân - báo ân đối với tiên tổ và với chính phước báu mình đang thọ hưởng. Thầy mong đại chúng mở rộng trái tim để tâm trợ duyên cho bà con, đồng thời chúc chư vị luôn được nhiều sức khỏe, thân tâm an lành, Bồ-đề tâm kiên cố và vững niềm tin nơi Phật - Pháp - Tăng. Thầy dạy rằng mỗi thiện nghiệp nhỏ bé được gieo trồng hôm nay sẽ góp phần làm đẹp cuộc đời và làm mới chính mình trong từng ngày.

Vào lúc 11h00, thời pháp ngày lễ Hạ nguyên khép lại tròn đầy. Sau khi được lắng nghe những chia sẻ về ý nghĩa Tết Hạ nguyên, đại chúng thêm một lần được nhắc nhở quay về sống với lòng biết ơn: biết ơn ông bà cha mẹ, tổ tiên, biết ơn trời đất và vạn hữu đã nâng đỡ mình và đặc biệt hơn cả là biết ơn Tam Bảo đã soi sáng. Qua việc tiếp xúc với giáo lý, mỗi người thấy rõ mọi sự trên đời đều mang tính tương quan - tương tức, vận hành theo giáo lý duyên khởi. Từ nhận thức ấy trở về chăm sóc đời sống tu tập, chuyển hóa tự thân, làm mới chính mình và tạo ra những giá trị thiện lành để hiến tặng cho cuộc đời.

Tin, ảnh: Khánh Ngân, Văn Thuận

━━━━━━━━━━━━━━━━━
Tu Viện Khánh An 🪷
Địa chỉ: 1055/3D Võ Thị Thừa, phường An Phú Đông, TP.HCM.
☎️ Điện thoại: 0869.569.102
📧 Email: tuvienkhanhanq12@gmail.com
📱 Fanpage: https://www.facebook.com/tuvienkhanhan1055
▶️ YouTube: https://youtube.com/
🌐 Website: http://tuvienkhanhan.vn

Pháp thoại: “THƯƠNG VỀ MIỀN GIÔNG BÃO” - Thầy Trí Chơn | Khóa tu Sống Tỉnh Thức lần thứ 99Sáng ngày 11/10 năm Ất Tỵ (nhằ...
04/12/2025

Pháp thoại: “THƯƠNG VỀ MIỀN GIÔNG BÃO” - Thầy Trí Chơn | Khóa tu Sống Tỉnh Thức lần thứ 99

Sáng ngày 11/10 năm Ất Tỵ (nhằm ngày 30/11/2025), tại Pháp đường Thấy và Biết, hơn 700 thiền sinh khóa tu Sống Tỉnh Thức lần thứ 99 được lắng nghe thời pháp thoại phúc lạc từ Thầy Viện chủ với chủ đề: “Thương về miền giông bão”.

Mở đầu Pháp thoại, Thầy chia sẻ về cảnh tượng bão lũ khốc liệt đang phủ xuống nhiều tỉnh thành miền Trung. Giữa những ngày mà thiền sinh tại tu viện được sống trong bình an và đầy đủ thì ngoài kia, bà con từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi đến Gia Lai, Đắk Lắk và dọc vùng Nam Trung Bộ vẫn đang gồng mình trong cảnh màn trời chiếu đất, nhà cửa chìm trong biển nước.

Thầy kể lại những câu chuyện thương tâm: có người tưởng lên lầu hai sẽ an toàn nhưng nước dâng theo từng bậc thang, buộc phải tháo tôn, tháo ngói để ngồi trên mái nhà nhiều ngày, chỉ mong nhìn thấy bóng dáng một chiếc xuồng cứu hộ; có nơi gạo mì được gửi đến nhưng cũng không có chỗ để nấu. Lũ về quá nhanh, quá bất ngờ, khiến hàng trăm người không kịp chạy thoát. Năm nào cũng bão, cũng lũ, cũng mất mát. Chúng ta sẽ đặt vấn đề: có tội tình gì mà đồng bào mình phải gánh chịu nhiều tang thương đến thế? Trong vòng luân hồi vô lượng kiếp, chúng ta làm sao thấy được chiều dài quá khứ nhưng ta có thể cảm thấu. Ta không ở đó nhưng ta hình dung được cái lạnh, cái đói, sự tha thiết của những ánh mắt dõi về phương xa để mong một bàn tay cứu giúp. Ta không đau nhưng cảm thấu được cái đau, ta không chứng kiến nhưng cũng hình dung được nỗi khổ của bà con cộng đồng.

Thầy cũng nói đến những điều đẹp đẽ đã thắp sáng trong mùa bão lũ đó là nghĩa tình của người Việt. Ai có áo thì tặng áo, ai có mì thì gửi mì; có những chuyến xe đi từ thiện chưa kịp đến nơi đã trượt xuống hố vì đường xá sạt lở; có người sửa xe không lấy tiền, chỉ đặt một thùng nhỏ để gom chút tấm lòng gửi ra miền Trung; có người bán bánh cũng không nhận tiền, chỉ mong góp được ít hương vị ấm áp cho những phận người đang run lên giữa dòng nước lạnh... Những hình ảnh ấy nhắc chúng ta rằng trong đau thương luôn có hạt giống của tình người, của lòng từ bi và sự xả thân. Và điều đó cũng nhắc mỗi người cần biết trân quý sự bình an mình đang có để mở rộng trái tim, sẻ chia với những ai đang chịu nhiều bất trắc.

Nhiều hình ảnh không khỏi nghẹn lòng, cảnh người con bất lực nhìn mẹ mình bị dòng nước cuốn trôi mà không thể giữ lại; những chuyến xe chở nhu yếu phẩm vượt núi, vượt đồi để tiếp tế cho bà con nhưng rồi cũng bị dòng lũ cuốn đi… Đau thương lên đến tận cùng khi có những người ra đi giữa dòng nước trong cảnh không kịp chuẩn bị gì cho một tang lễ tối thiểu: không quan tài, không hương khói, có nơi áo quan phải treo tạm trên cành cây chờ nước rút mới có thể đem chôn. Người còn sống muốn đội khăn tang cho người thân cũng không có nổi một mảnh vải để trùm lên đầu.

Từ những hình ảnh ấy, Thầy muốn nhắn nhủ đến đại chúng ba điều sâu sắc. Điều thứ nhất, hãy nhìn lại chính mình để thấy rằng mỗi người đang có phước báu lớn lao. Một bữa cơm đầy đủ của ta hôm nay có thể cứu được một mạng người đang đói rét nhiều ngày phải bấu víu trên ngọn cây. Điều thứ hai, hãy xem đây như một bài pháp để thực tập mở rộng lòng từ bi, sống rộng lượng hơn một chút để cứu người, cứu đời. Thầy chia sẻ rằng nhờ sự phát tâm của chư Phật tử gần xa, Tu viện Khánh An đã hoàn mãn chuyến cứu trợ tại Nghệ An. Bà con tiếp tục yểm trợ cho chuyến đi Huế nhưng khi đang chuẩn bị thì giông bão lại bất ngờ ập xuống Bình Định cũ, Phú Yên cũ (nay là Gia Lai và Đắk Lắk), thảm cảnh còn nghiêm trọng hơn rất nhiều. Thầy nói, những lúc TP.HCM mưa lớn đường ngập và kẹt xe, chúng ta không thể đem nỗi bất tiện ấy so với những bà con nhiều ngày đêm đằm mình trong dòng nước lũ, tay bám cành cây, tay bấu mái nhà để giữ lấy sự sống mong manh. Hơn bao giờ hết đây là cơ hội để chúng ta mở trái tim mình, thấy được nghiệp báo của mỗi chúng sinh là lãnh thọ nhưng ta vẫn còn một trái tim nồng ấm để cứu giúp những người đồng hương, bạn đạo đang gặp khốn khó. Điều thứ ba, Thầy nhắc về sự vô thường của kiếp người. Cuộc sống vốn dĩ bất toàn, bất trắc và đầy rẫy bất an. Không biết kim cương rắn chắc cỡ nào, cũng không biết vàng bền bỉ ra sao, nhưng chỉ biết là núi kia còn sụp đổ, sông kia còn bị lấp vùi, Trái đất còn liên tục đổi thay và bản đồ thế giới liên tục bị biến dạng để thấy sự vô thường là nhãn tiền chứ không bền bỉ, không chắc thật và không phải ở mãi như chúng ta đã suy nghĩ.

Từ những câu chuyện giông bão của thiên nhiên, Thầy dẫn đại chúng đi vào một tầng sâu hơn, đó là những cơn giông bão trong tâm thức. Thiên tai có thể tàn phá nhà cửa, cuốn trôi sự sống nhưng chính những “bộc lưu” trong tâm mới là thứ có thể phá vỡ sự bình an và hạnh phúc nơi mỗi người. Thầy giải thích, “bộc lưu” nghĩa là dòng thác đổ mạnh, dòng nước xiết cuốn phăng tất cả. Đức Phật từng ví cuộc đời này cũng giống như một dòng chảy không ngừng, luôn cuốn ta về phía trước dù ta có muốn hay không. Trong Kinh Tương Ưng, ký phẩm đầu tiên kể về một vị thiên giả đến thưa hỏi Đức Phật trong đêm rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, đời là một dòng nước chảy xiết, cuốn trôi tất cả. Làm sao thoát khỏi bộc lưu?”. Đức Phật đáp: “Này thiên giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt thoát bộc lưu.”. Vị thiên giả lại hỏi thế nào là không đứng lại và thế nào là không bước tới? Đức Phật giải thích: “Đứng lại thì bị chìm. Bước tới thì bị cuốn trôi. Vì vậy, không đứng lại, không bước tới, ta vượt thoát bộc lưu.”. Nghiền ngẫm, chiêm nghiệm, lời dạy ấy ngỡ như nghịch lý vì con người chỉ có thể đứng yên hoặc di chuyển nhưng Ngài bảo là đừng đứng lại cũng đừng di chuyển. Nó giống như một câu thiền ngữ để cho chúng ta tu, dòng lũ này ở nơi tâm thức của chúng ta. Nhưng đây không phải lời dạy về thân mà là lời dạy về tâm. Dòng lũ mà Đức Phật nói đến là dòng lũ nơi tâm thức, là xáo động, loạn tưởng, dục vọng, sợ hãi, tham chấp, những thứ khiến chúng ta chìm đắm hoặc bị cuốn đi giữa dòng đời.

Thầy giảng tiếp về ba cơn bộc lưu - ba dòng lũ dữ luôn cuồn cuộn trong tâm thức mỗi người: lũ tham, lũ sân và lũ si. Thầy giải thích, khi ta đến một nơi đẹp đẽ, một khu vườn tươi mát hay một không gian khiến lòng dễ chịu, tâm liền khởi niềm thích thú. Từ thích dẫn đến ưa, từ ưa dẫn đến muốn chiếm giữ, đó chính là dấu hiệu đầu tiên của việc “đứng lại” mà Đức Phật đã cảnh báo. Khi ta bắt đầu dừng lại trước một đối tượng dễ chịu, dòng lũ tham lập tức cuốn đến. Hay một âm thanh êm dịu, một khuôn mặt khả ái hoặc một cảnh vật thuận mắt... đều có thể khiến ta bám chặt vào cảm giác đó. Thầy nói, cơn lũ tham là dòng lũ đầu tiên cuốn phăng chúng sinh, khiến ta đánh mất sự tỉnh thức.

Ngược lại, khi gặp điều không vừa ý, không như mong muốn, tâm liền sinh bực bội, chống đối. Đối tượng mà hôm qua ta thích, hôm nay nhìn lại không còn dễ chịu như mình tưởng, liền phát sinh chán nản, muốn quay lưng và từ đó cơn lũ sân lập tức dâng lên. Đó là lý do Đức Phật dạy đừng đứng lại, đừng để tham trói buộc; đừng bước tới, đừng để sân cuốn trôi. Thầy nhấn mạnh: ba cơn lũ tham - sân - si luôn hoành hành trong lòng mỗi người. Chúng ta có thể nhìn thấy một dòng sông trôi đi một cách thanh bình và êm ả nhưng ở dưới lòng sông thì cuồn cuộn nước. Chúng ta có thể nhìn thấy vẻ bề ngoài ai cũng có thể trông bình an như một dòng sông phẳng lặng nhưng bên trong, dòng nước tâm thức vẫn âm thầm cuộn xoáy. Đó chính là những cơn lũ nội tâm, nguy hiểm không kém gì bão lũ ngoài đời.

Chúng ta tài giỏi đến đâu cũng khó có thể tự mình thấy trọn bản chất cuộc đời. Đức Thế Tôn sống vô tham, vô cầu không có sở đắc, cái gì đến thì đến, cái gì đi thì đi. Tâm của Thế Tôn rộng rãi như hư không và dung chứa được tất cả vô lượng, vô số thế giới và tất cả mọi sự vật hiện tượng. Đức Phật đã thấu triệt chân lý: mọi sự vật do duyên sinh nên có mặt; đã là duyên sinh thì vô thường, không thật có và vì vô thường nên bất toại ý là điều tất yếu. Bài pháp về “bộc lưu” là cuộc đối thoại giữa chư thiên và Đức Thế Tôn và cũng là lời nhắc nhở trực tiếp đến mỗi người chúng ta trong đời sống hôm nay.

Thầy chia sẻ đến một cuộc đối thoại khác trong kinh giữa Đạo sĩ Jambukādaka và Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta). Vị đạo sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự: “Thế nào là bộc lưu? Thế nào là dòng lũ cuốn trôi? Thế nào là dòng thác chảy xiết?”. Tôn giả Sariputta đã chỉ rõ có bốn dòng bộc lưu:
1. Dục lưu - dòng lũ của tham dục;
2. Hữu lưu - dòng lũ buộc trói vào sự hiện hữu, chấp “có” hay “tồn tại”;
3. Kiến lưu - dòng lũ của tà kiến, nhận thức sai lầm;
4. Vô minh lưu - dòng lũ của không thấy được chân lý.

1) Dục lưu
“Lưu” nghĩa là dòng chảy xiết; “dục” là ham muốn, đam mê, thỏa thích. Con người ai cũng có khao khát giống nhau khi thích điều dễ chịu, tránh điều bất như ý nên ta thường xem tham muốn là chuyện bình thường. Tuy nhiên, các bậc Thánh thì không sống như vậy bởi các Ngài đã thấy rõ bản chất khổ đau của dục và biết rằng tham dục chính là một dòng lũ nguy hiểm. Con người thường đam mê năm loại dục: 1- Tài dục, 2- Sắc dục, 3- Danh dục, 4- Thực dục, 5- Thuỳ dục.

Về tài dục, tiền thực sự tồn tại khách quan và giá trị của nó được thẩm định bằng chính việc ta tạo tác, thái độ ta sử dụng và tấm lòng của ta rộng mở như thế nào về nó. Chúng ta tu tập sẽ thấy được rằng đó là một phương tiện, không có nó thì khó sống một chút chứ không phải là không thể sống. Tiền bạc giúp mình có miếng cơm, manh áo, viên thuốc và lo cho con cái học hành nhưng cũng chính đồng tiền ấy, khi không có chánh niệm có thể khiến ta đánh mất uy tín, danh dự, nhân phẩm và tạo nên ác nghiệp. Có người gom góp rất nhiều nhưng gom rồi lại không biết để làm gì; có người để đến cuối đời vẫn xem tiền tài như chân lý. Thầy khuyến tấn đại chúng hãy buông ngay từ bây giờ.

Tiếp theo tiền tài là sắc - đối tượng dễ làm tâm khởi tham, khiến ta dính mắc, ảo tưởng và trôi theo dòng lũ dục mà không hay biết. “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân.” Mưa không hề là sợi dây trói buộc bước chân ta và vẻ đẹp cũng không phải là sóng gió nhấn chìm con người. Chúng ta thường tự nhận mình “vì danh dự”, “vì nhân phẩm” nhưng nhiều khi chỉ đang củng cố cho những điều rất ảo. Thầy nhắc đại chúng sống đơn giản và tỉnh thức: Ăn chỉ để nuôi thân, đừng nuôi cơn giận; Ngủ điều độ, đừng để bản thân bị cuốn bởi những “lũ lụt” của ngũ dục. Tài - sắc - danh - thực - thùy chính là dục lưu, những dòng chảy lôi cuốn ta nếu thiếu chánh niệm.

2) Hữu lưu
Là sự muốn trở thành, muốn đạt một vị trí, muốn thành danh, thậm chí muốn được sinh về một cõi cao hơn... Khi bị ám ảnh bởi “cái sẽ trở thành”, ta rất dễ đi mà không thấy mình, phấn đấu mà đánh mất chính mình. Nếu thiếu tu tập thì những dòng thác ấy có thể cuốn phăng ta bất cứ lúc nào. Thầy khẳng định: Không ai cấm ta có lý tưởng hay ước vọng đẹp nhưng tương lai không nằm ở ngày mai mà được tạo nên từ ngay bây giờ. Khi nhìn một bác sĩ giỏi, một võ sĩ nổi tiếng hay một đóa hoa đẹp, ta thường chỉ thấy quả, mà quên rằng phía sau là vô số phút giây gieo trồng và vun bón. Cũng vậy, mỗi phút giây ta sống trong chánh niệm sẽ tích tụ thành hoa trái an lạc trong tương lai. Thầy nhắc rằng, để có bình an chúng ta không cần đi tìm ở một nơi nào khác, bình an nằm ngay trong hơi thở, trong sự trở về ngay bây giờ và ở đây. Chân lý của cuộc đời không nằm ngoài thân và tâm ta, càng tìm kiếm bên ngoài thì ta càng đánh mất chính mình và càng chất chồng khổ đau.

3) Kiến lưu
“Kiến” ở đây là tà kiến, những cái thấy sai lầm, những tri giác nhầm lẫn mà ta lại xem như chân lý. Khi bám vào những nhận định lệch lạc ấy, ta để cho chúng cuốn trôi mình lúc nào không hay. Trong đời sống hiện đại, không ít chủ thuyết được trình bày một cách bài bản nhưng thực chất chỉ phục vụ cho việc tôn tạo bản ngã, dẫn con người đi vào những hướng đầy chật vật, không thấy được sự thật khách quan của đời sống. Chính những tà kiến ấy khiến chúng ta rời xa tự thân, rời xa bình an vốn có.

Trong lời giảng, Thầy nhấn mạnh rằng người học Phật phải thấy được duyên sinh - thấy rằng không có pháp nào tự tồn tại đơn lẻ, mọi thứ đều nương vào nhau mà thành. Khi chưa thấu hiểu duyên sinh, ta rất dễ bám chấp vào những quan điểm sai lầm để rồi bị chúng chi phối. Từ thời Đức Phật cho đến ngày nay, đã biết bao con người ngã xuống vì một chủ thuyết, vì những tà kiến được dựng lên như chân lý. Ngay trong thời hiện đại, không ít những lời nói mượn danh giáo lý nhưng lại dẫn dắt người nghe đi vào con đường mê lầm. Vì vậy, người học Phật cần phải có chánh kiến, chín chắn, tỉnh táo với nền tảng giáo lý vững chắc. Thầy dạy rằng, sống ở đời phải học, huống hồ là học Phật, không học làm sao tu và làm sao hiểu được giáo lý. Chỉ khi học và thực tập chánh pháp, dù chỉ dăm ba ngày, chắc chắn tín tâm của chúng ta sẽ sống chết với Tam Bảo và không tin tà kiến.

Bên cạnh tà kiến, Thầy cảnh báo một nguy hại lớn hơn là “phá kiến”. Phá kiến là những quan điểm làm rạn nứt tinh thần hòa hợp của tăng thân, gây chia rẽ trong cộng đồng Phật tử và xã hội. Phá kiến không chỉ sai lầm mà còn mang tính tàn phá, khiến cộng đồng đi theo con đường lệch lạc. Chính vì thế, người học Phật phải luôn tỉnh thức và chánh niệm, học Phật để hiểu Phật, tu tập để nuôi dưỡng chánh kiến, bảo hộ sự an ổn của mình và của cả cộng đồng.

4) Vô minh lưu
Vô minh” là không có trí tuệ, si mê, không thấy được bốn chân lý màu nhiệm là: Khổ, căn nguyên gây khổ, con đường tịch tịnh Niết bàn và Niết bàn vắng lặng. Vô minh chính là nền tảng để ba dòng lũ trước là dục lưu, hữu lưu và kiến lưu cuốn con người trôi lăn trong mê lầm.

Vậy phải tu tập như thế nào để vượt ra khỏi bốn dòng lũ ấy? Thầy dạy: Đứng lại là một cực đoan, ta sẽ dính mắc, bị chìm trong tham ái; bước tới cũng là một cực đoan, ta sẽ bị trôi theo sân giận và chỉ có Trung đạo mới giúp ta vượt qua.

Con đường Trung đạo ấy chính là Thánh đạo Tám ngành:
(1) Thấy đúng - Chánh kiến;
(2) Nghĩ đúng - Chánh tư duy;
(3) Nói đúng - Chánh ngữ;
(4) Hành động đúng - Chánh nghiệp;
(5) Nghề nghiệp nuôi sống thân mạng đúng - Chánh mạng;
(6) Sự nỗ lực chân chánh - Chánh tinh tấn;
(7) Sự nhớ nghĩ chân chánh - Chánh niệm;
(8) Sự tập trung tâm ý chân chánh - Chánh định.

Toàn bộ giáo lý nhà Phật đều nằm trọn trong Thánh đạo Tám ngành.
Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về Giới;
Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về Định;
Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về Tuệ.

Từ ba môn vô lậu học: Giới, Định và Tuệ này quy chiếu qua đời sống của chúng ta, là nền tảng để ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Đức Thế Tôn đã chứng đạo qua con đường này và chúng ta tiếp tục đi để ngang qua con đường này. Khi tu tập và thấm nhuần giáo lý duyên sinh, ta thấy được các pháp như thật: không có pháp nào tự tồn tại; mọi thứ đều nương vào nhau mà thành. Ai thấy duyên sinh là thấy Pháp và ai thấy Pháp là thấy như là, thấy đúng thực tánh của sự vật. Nhờ có chánh kiến nên ta từ bỏ tà kiến; nhờ chánh tư duy nên từ bỏ tà tư duy; cũng vậy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định mà ta buông bỏ những pháp bất thiện. Khi cái tà không còn, vô minh tan biến thì dục, hữu và tà kiến cũng không còn, bấy giờ ta mới có được trí tuệ thấu đáo từ công phu tu tập.

Nỗi đau của miền Trung vẫn còn đó và trước những mất mát ấy, chúng ta không thể vô cảm, không thể làm ngơ và trong cuộc hành trình này chúng ta quyết không để ai bị bỏ lại ai phía sau. Điều quan trọng là phải quay về tu tập, nuôi lớn và làm hiển lộ bốn tâm vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả - bốn phẩm chất đưa con người vượt qua giới hạn của cái tôi nhỏ bé để mở rộng trái tim ôm lấy mọi khổ đau của cuộc đời.

Thứ nhất, TÂM TỪ: Từ là tâm rộng mở, thương yêu, giúp người, giúp đời một cách vô điều kiện. Đây là loại tình thương không đổi chác, không toan tính, không phân biệt quen lạ, thân sơ. Tuy vậy, nếu thiếu chánh niệm chúng ta dễ ngộ nhận tâm Từ với sự luyến chấp tình cảm. Chướng ngại trực tiếp của tâm Từ là tham và chiếm hữu: thương mà muốn giữ, giúp mà muốn được đền đáp. Chướng ngại gián tiếp là ái luyến: sự thương yêu pha lẫn dính mắc, khiến tâm bị co hẹp lại thay vì mở rộng ra.

Thứ hai, TÂM BI: Là tâm động lòng trắc ẩn, rung động sâu sắc trước nỗi đau của người khác, là trạng thái tâm không chịu nổi khi thấy khổ đau của chúng sinh và phải tìm cách giúp đỡ. Chướng ngại trực tiếp của tâm Bi là sân giận: khi thấy trái ý nghịch lòng, ta không còn giữ được lòng từ bi thuần tịnh. Chướng ngại gián tiếp là bi lụy, u sầu, ủ dột: thương mà mệt mỏi, giúp mà kiệt lực, khổ theo nỗi khổ của người khác. Tâm Bi chân thật là hành động cứu khổ nhưng vẫn giữ được sự tỉnh thức, không rơi vào cảm xúc tiêu cực.

Thứ ba, TÂM HỶ: Hỷ là niềm vui, là sự hân hoan trước hạnh phúc và thành công của người khác. Tu tập tâm Hỷ là học cách hoan hỷ, tán thán và chia sẻ hạnh phúc với mọi người. Chướng ngại trực tiếp của tâm Hỷ là ganh ghét, tật đố, tị hiềm: khi không thể chịu được việc người khác hơn mình. Chướng ngại gián tiếp là xu phụ, hùa theo: vui theo người khác một cách vô ý thức, thiếu trí tuệ.

Thứ tư, TÂM XẢ: Là tâm không câu chấp, không dính mắc, không bị cuốn vào bất kỳ đối tượng nào dù dễ chịu hay khó chịu. Chướng ngại trực tiếp của tâm Xả là tham và nắm giữ: muốn ôm lấy, muốn kiểm soát. Chướng ngại gián tiếp là vô cảm: nhầm lẫn giữa buông xả và thờ ơ, dửng dưng.

Trước cảnh bão lũ tàn phá miền Trung, khi nhìn thấy những đau thương của đồng bào, ta khởi tâm Từ và Bi nhưng để không bị cuốn vào bi lụy, ta phải có tâm Xả. Với tâm Xả, Đức Thế Tôn thấy nỗi khổ của chúng sinh nhưng không rơi vào đau buồn vì Ngài hiểu rõ luật nhân quả - nghiệp báo, từ đó khởi lên lòng bi trí tuệ mà không phải bi thương cảm tính. Tu tập tâm Xả là khó nhất trong bốn tâm vô lượng, bởi nó đòi hỏi sự tỉnh thức sâu sắc và khả năng nhìn thấu thực tánh của thân tâm.

Cuối lời, Thầy nhắn nhủ đại chúng hãy thực tập sống với bốn tâm vô lượng, ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải nuôi dưỡng Từ, Bi, Hỷ, Xả, mở rộng trái tim với người thân rồi đến người xa lạ và tất cả mọi loài trong vô lượng thế giới. Ở đâu có khổ đau, ở đó ta có mặt. Khi miền Trung đang oằn mình trong giông bão, chúng ta hướng về bằng tất cả tình thương và hành động. Nhưng Thầy muốn nhắc rằng: giông bão thật sự cũng đang diễn ra trong chính mỗi chúng ta. Chúng ta hướng về miền Trung thương miền giông bão nhưng cũng đừng quên quay về nhận diện “giông bão” trong thân tâm mình. Cố gắng tu tập để vững chãi vượt qua những bão giông ấy, thấy rõ tứ đại - ngũ uẩn, thấy rõ thực tánh của chính mình. Chỉ như vậy, ta mới có thể tiếp nối trọn con đường mà Đức Thế Tôn đã truyền trao.

Vào lúc 11h00, thời pháp thoại khép lại trong sự lắng dịu. Lời Thầy nhắc nhở khiến mỗi người thêm thấm thía nỗi khổ của đồng bào miền Trung đang oằn mình trong bão lũ, để rồi biết mở rộng trái tim, nuôi lớn lòng từ bi và cùng nhau gửi năng lượng yêu thương về miền giông bão. Đại chúng hiểu rằng giữa những giông bão của đất trời và những dòng lũ của tâm thức, chỉ có chánh pháp mới giúp ta đứng vững, không bị cuốn trôi.

Tin, ảnh: Khánh Ngân, Văn Thuận

━━━━━━━━━━━━━━━━━
Tu Viện Khánh An 🪷
Địa chỉ: 1055/3D Võ Thị Thừa, phường An Phú Đông, TP.HCM.
☎️ Điện thoại: 0869.569.102
📧 Email: tuvienkhanhanq12@gmail.com
📱 Fanpage: https://www.facebook.com/tuvienkhanhan1055
▶️ YouTube: https://youtube.com/
🌐 Website: http://tuvienkhanhan.vn

Address

1055/3D Võ Thị Thừa, P. An Phú Đông
Ho Chi Minh City

Opening Hours

Monday 06:00 - 11:30
13:30 - 20:30
Tuesday 06:00 - 11:30
13:30 - 20:30
Wednesday 06:00 - 11:30
13:30 - 20:30
Thursday 06:00 - 11:30
13:30 - 20:30
Friday 06:00 - 11:30
13:30 - 20:30
Saturday 06:00 - 11:30
13:30 - 20:30
Sunday 06:00 - 11:30
13:30 - 20:30

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tu Viện Khánh An posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Tu Viện Khánh An:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram