14/01/2016
NGOẠI CẢM" DƯỚI CON MẮT CỦA BÁC SĨ TÂM THẦN
Bs: Trần Thanh Liêm - Phòng khám trí tuệ xanh
Thời gian gần đây chủ đề "ngoại cảm" và những "nhà ngoại cảm" đang thu hút rất nhiều sự chú ý từ dư luận. Xung quanh chủ đề này đã có rất nhiều luồng ý kiến bác bỏ cũng như ủng hộ. Ý kiến nào cũng có lý lẽ riêng. Bằng những kiến thức có được cũng như kinh nghiệm hơn 20 năm công tác trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần xin được được đưa ra những ý kiến nhận xét của cá nhân. Cũng không ngoài mục đích là tìm hiểu liệu những khả năng "ngoại cảm" là gì? Tại sao "nhà ngoại cảm" lại có được khả năng đó? Tại sao "ngoại cảm" lại chỉ xoay quanh việc tìm mộ liệt sĩ, những người đã chết từ lâu cũng như nhập hồn và nói những lời của người đã chết? Liệu họ có là những người thật sự có khả năng đặc biệt hay họ là bệnh nhân tâm thần?
Dạo qua trên mạng và đánh từ khóa "ngoại cảm"có thể bắt gặp khá nhiều những những bài viết về các "nhà ngoại cảm". Tìm hiểu nhân thân, sự xuất hiện của những cảm giác được gọi là "ngoại cảm" và quá trình hành nghề của các "Nhà ngoại cảm" có thể nhận thấy những điểm chung như sau:
(1) Hầu như các "nhà ngoại cảm" đều đã từng trải qua những biến cố nặng nề trong quá khứ. Có người bị chó dại cắn và phải sống trong sợ hãi với ý nghĩ mình sắp chết. Lại có người đã từng sống trong cảm giác tuyệt vọng không lối thoát khi lệ thuộc vào ma tuý. Cũng có người đã từng trải qua cuộc sống cơ cực. Nghĩa là hầu như họ đã trải qua những trạng thái cảm xúc gần như là tuyệt vọng, không lối thoát và không chịu đựng nổi. Chỉ sau một thời gian sống trong trạng thái đó, họ bắt đầu có cảm giác về những thứ được gọi là "ngoại cảm". Nghĩa là họ nghe được những điều người khác không nghe được, họ nhìn thấy những cái mà chúng ta không thấy được. Họ có thể trở thành một người khác trong nhận thức gọi là nhập hồn.
(2) Các "nhà ngoại cảm" đều không phải là những người được học hành và hiểu biết rộng so với mặt bằng chung.
(3) Đa số nếu không muốn nói là tất cả đều có cuộc sống thường nhật khó khăn .
Có thể đặt vấn đề là tại sao những “khả năng siêu việt” của "nhà ngoại cảm" lại không phải đến từ sự kiên trì khổ luyện, một quá trình học hành, hay một tiềm năng có sẵn? Giường như khả năng này đến một cách tình cờ ngoài ý muốn của bản thân “nhà ngoại cảm”. Nhất là nó cũng chỉ đến với những người đang hoặc đã ở tận cùng của sự sợ hãi, tuyệt vọng, đau khổ, xấu hổ...? Câu hỏi cho chúng ta sẽ là: Liệu có mối liên quan nào giữa những biến cố tiêu cực trong đời sống của cá nhân với những khả năng đặc biệt của "nhà ngoại cảm"? Nếu như có thì mối liên quan này sẽ như thế nào?
Rõ ràng chúng ta có thể suy diễn về một đường "link" giữa sự kiện tiêu cực và khả năng đặc biệt của "nhà ngoại cảm" . Có thể điều này hơi khó tiếp cận với các bạn mà công tác thuộc các lĩnh vực không phải chuyên nghành tâm thần. Tuy nhiên cũng không hẳn là quá khó.
Mỗi cá nhân sẽ ra sao khi đứng trước những cảm xúc quá mức, không lối thoát và "không thể chịu đựng được"?
Chắc chắn rằng, mỗi người chúng ta đã từng chứng kiến ít nhất một lần người khác trải qua trạng thái đó. Ví dụ chứng kiến một người mẹ có đứa con duy nhất chết vì tai nạn giao thông, một người vừa mất một tài sản lớn, một người đau khổ hay sợ hãi trước thảm họa thiên nhiên vượt khỏi tưởng tượng, những người thất vọng trong tình yêu, hôn nhân... tóm lại là có rất nhiều .
Trước những tình huống như vậy mỗi cá nhân sẽ có những kiểu phản ứng khác nhau. Có người ngất xỉu, có người la hét, cào cấu như điên loạn và cũng có người trở thành ngớ ngẩn không nhận ra những gì xung quanh,...
Dù mỗi người một vẻ nhưng hình như họ đều tỏ ra thái quá trước những hoàn cảnh như vậy giống như đó là cách để giảm nhẹ những trạng thái cảm xúc tiêu cực quá mức.
Để lý giải điều này, các lý thuyết của phân tâm học và tâm thần học hiện đại đã đề cập đến cách thức phản ứng của hoạt động tâm thần làm giảm nhẹ lo âu, sợ hãi cũng như những cảm xúc không thể chịu đựng được. Sigmunt Freud gọi là "cơ chế bảo vệ" (defense mechanism). Đây là lý thuyết được khởi xướng bởi Sigmunt Freud sau đó là con gái ông, Anna Freud. Lý thuyết này ngày càng phát triển và đến nay nó đã trở thành là một trong những lý thuyết nền tảng cho phân tâm học, tâm thần học và tâm lý cũng như nhiều nghành khoa học xã hội khác.
Cơ chế bảo vệ (defense mechanism) là gì?
Trong cuộc đời mỗi chúng ta sẽ có lúc phải chịu đựng những sự kiện gây ra những trạng thái cảm xúc âm tính không thể chịu đựng nổi hay không có lối thoát như lo âu, sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng, xấu hổ…
Khi đó để bảo vệ cái tôi , cái nhân cách, bản ngã (self, ego, personality) hoạt động tâm thần sẽ "lập trình" một cơ chế đặc biệt được gọi là "cơ chế bảo vệ". "Lập trình" này đưa hoạt đông tâm thần vào vùng vô thức nhằm hạn chế nhận thức của bạn về hoàn cảnh hay mối quan hệ đang gây những cảm xúc âm tính quá mức. Xin lưu ý là cơ chế này được "lập trình" để xuất hiện hoàn toàn tự động khi người ta có cảm giác không chịu đựng được nữa. mục đích là để bảo vệ cái tôi trong hoạt động tâm thần.
Cơ chế bảo vệ là chiến lược thích nghi của hoạt động tâm thần trước những tình huống gây trạng thái cảm xúc không thể chịu đựng được (overwhelm). Nhờ cơ chế này mà chúng ta có thể vượt qua những tình huống ngặt nghèo, éo le, nghịch cảnh..
Theo Freud, khi đứng trước những nỗi đau quá lớn, sự tuyệt vọng không lối thoát, sự sợ hãi khôn cùng... thì việc giảm nhận thức về những sự kiện hay mối quan hệ đang gây ra trạng thái cảm xúc tiêu cực là cần thiết để giúp chúng ta vượt qua những thời khắc khó khăn.
Những cách thức căn bản đó là:
(1) Hoặc là làm thay đổi hay méo mó thực tế đang hiện hữu. Ví dụ bạn đang đứng trước một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp (như động đất và sóng thần ở Nhật bản chẳng hạn) gây ra sự sợ hãi tột độ. Khi đó để bảo vệ cái tôi, cái bản ngã, hoạt động tâm thần sẽ được "lập trình" để cảm nhận hoàn cảnh không thật như những gì thật sự khủng khiếp đang diễn ra. Có thể trong cảm nhận của bạn sẽ là một khung cảnh nên thơ, một cảnh tượng dễ chịu, hay ít nhất là một thực tế không khủng khiếp như những gì đang hiện hữu. Khi đó mọi người sẽ được chứng kiến bạn đang mê đắm vui vẻ, sảng khoái hay dửng dưng với mọi thứ chứ không phải sợ hãi, tuyệt vọng nữa. Trong tâm thần học người ta gọi hiện tượng này là "tri giác sai sự thật" hay "giải thể thực tại" (derealization)
(2) Hoặc là bạn không còn là chính mình đang gắn với những sự kiện hay mối quan hệ gây đau khổ, tuyệt vọng... Trở lại với bà mẹ mất con duy nhất trong tai nạn giao thông. Bà ta đau khổ vì bà là mẹ của nạn nhân. Nếu trong nhận thức, bà trở thành một người khác không còn mối quan hệ này thì bà không còn phải chịu nỗi đau mất mát nữa. Khi đó bà sẽ được "lập trình" thành một người với cái tôi hoàn toàn khác. Cái tôi này không liên quan đến nạn nhân và lúc này bà sẽ trở nên vui vẻ, thậm chí có thể cười và hát hay ngây ngô như một đứa trẻ thơ. Dĩ nhiên là bà tạm thời không phải chịu nỗi đau đang hiện hữu. Chuyên nghành tâm thần gọi là loạn cảm giác bản thể, hay là lẫn lộn nhận biết bản thân (identity confusion). Nếu bệnh nhân không còn biết mình là ai thậm chí là tách khỏi cái tôi thực sự thì gọi là giải thể nhân cách (depersonalization).
Những cách thức trên nằm trong hai cơ chế được sử dụng nhiều là phân ly (dissociation) và chuyển dạng (conversion).
Chuyển dạng (conversion) là cơ chế bảo vệ trong đó cơ chế này "lập trình" để nhận thức đang từ sự kiện hay mối quan hệ gây ra những trạng thái cảm xúc âm tính quá mức (overwhelm) sang một biểu hiện bệnh cơ thể. Mục đích là giảm những cảm xúc âm tính thật đang hiện hữu.
Phân ly (dissociation) là cơ chế bảo vệ trong đó sự thống nhất của hoạt động tâm thần bị gián đoạn (discontinue) hay bị phá vỡ (disruption) nhằm làm hạn chế nhận thức của cá nhân về sự kiện, mối liên hệ đang gây ra những cảm xúc âm tính quá mức.
Trong cuộc đời của mỗi người, các cơ chế này được sử dụng một, một vài hay nhiều lần trong những tình huống ngặt nghèo không thể giải quyết hay không thể chịu đựng được. Nó thật sự là một cơ chế hữu hiệu để bảo vệ hoạt động cái tôi , cái bản ngã (ego, self) của mỗi chúng ta.
Khi nào thì các cơ chế này trở thành bệnh?
Bình thường, sau khi các cơ chế này giúp chúng ta vượt qua những tình huống ngặt nghèo, sợ hãi, đau khổ quá mức... Chúng sẽ dừng lại và chúng ta sẽ trở về bình thường trong nhận thức. Ví dụ người mẹ mất con trong tai nạn giao thông, cơ chế này có thể xuất hiện khi cảm giác đau khổ ở ngưỡng không thể chịu đựng được sau đó bệnh nhân sẽ trở lại bình thường. Cùng với thời gian, nỗi đau nguôi ngoai dần khiến người ta dễ chấp nhận hơn.
Tuy nhiên khi đứng trước những tình huống gây những cảm xúc quá mức mà sau khi cơ chế bảo vệ dừng lại, cảm giác về sự sợ hãi, tuyệt vọng... chỉ giảm nhất thời sau đó lại trở lại như cũ thì có thể cơ chế này sẽ được sử dụng lại. Ví dụ một người đang sợ mình sẽ chết vì bị chó dại cắn. Hay những người phụ nữ không chồng bị nhu cầu bản năng hành hạ chẳng hạn... thì sự sợ hãi hay những xung đột nội tâm gần như thường trực. Chính vì vậy, mỗi lần những cảm xúc tiêu cực được đẩy tới ngưỡng thì cơ chế này lại xuất hiện.
Freud lý giải: "Tuỳ vào hoàn cảnh và sự kiện gây trạng thái quá mức của cảm xúc mà một nhóm chức năng tâm thần tổ hợp lại với nhau theo kiểu modulle. Chúng tạm thời tách ra độc lập với hoạt động tâm thần vốn thống nhất . nhóm chức năng này hoạt động một cách riêng rẽ hoặc thậm chí là không hoạt động trong khi các chức năng tâm thần khác vẫn hoạt động bình thường". Ví dụ như ở bệnh nhân trốn nhà phân ly, bệnh nhân hầu như vẫn giữ được tất cả các chức năng như đi đúng đường, không gây tai nạn, biết chăm sóc mình... nhưng chỉ có nhận thức về chuyến đi và mục đích chuyến đi là không tồn tại. Sau đó chúng được hoàn trả lại. Tức là nhóm chức năng tâm thần này luôn đi cùng nhau trong phân ly và chuyển dạng. Ví dụ một bệnh nhân có rối loạn chuyển dạng kiểu liệt nửa bên người thì lần khác nó cũng xảy ra như vậy. Hay một người có rối loạn phân ly kiểu bị nhập thì lần khác cũng sẽ xảy ra như vậy, có khác chăng là nội dung cụ thể mà thôi. Freud gọi kiểu hoạt động này là modullation (có thể tháo ra và lắp vào)
Khi các cơ chế này xuất hiện nhiều lần ảnh hưởng đến chất lượng sống, chức năng nghề nghiệp và xã hội thì lúc đó gọi là rối loạn phân ly hay chuyển dạng. Lưu ý là ICD-10 của tổ chức y tế thế giới đề cập khái niệm các rối loạn phân ly bao gồm cả phân ly và chuyển dạng. Trong khi đó hệ thống DSM (đặc biệt là DSM-IV, DSM-IV-TR và mới nhất là DSM-V) của hiệp hội tâm thần Mỹ lại xếp chuyển dạng nằm trong phần các rối loạn dạng cơ thể (somatoform disorders) còn các rối loạn phân ly chỉ những rối loạn đúng là phân ly theo cơ chế bảo vệ.
Các nhóm triệu chứng của các rối loạn phân ly
Có năm nhóm triệu chứng hạt nhân của rối loạn phân ly
(1) Quên phân ly: Chúng ta biết đến nhiều h/c quên do ghi nhận kém, do lưu trữ kém hoặc do truy xuất thông tin kém. Tuy nhiên khác với các loại quên này, quên phân ly được cho là khó lý giải. Quên thường gắn với sự kiện gây sang chấn. Ví dụ một đứa trẻ từng bị lạm dụng tình dục lúc 8 tuổi có thể sẽ không nhớ những sự kiện xảy ra trong thời gian đó. Chúng ta hãy hình dung (dù không phải hoàn toàn chính xác) là những sự kiện có thể tạo đường "link" gợi nhớ lại sự kiện gây sang chấn có thể dễ dàng bị quên hơn. Ví dụ khác là một người có thể tỏ ra ngớ ngẩn không nhận ra đường về nhà ngay khi đang đứng trước cổng nhà mình. Lý do là vì nơi đó người này đã mất người thân yêu duy nhất.
Quên ở đây không có sai sót ở quá trình ghi nhận thông tin cũng như quá trình lưu trữ thông tin. Chỉ có quá trình truy xuất thông tin đã bị chặn lại một cách chọn lọc và "chủ động". Nghĩa là chỉ có một số thông tin cụ thể nào đó bị chặn lại và không thể truy xuất được.
Cũng có thể quên xảy ra với những điều vụn vặt khó lý giải. Không nhớ tại sao mình lại có một vật dụng nào đó. Hay không nhớ tại sao mình lại có mặt ở một nơi nào đó...
Hãy quan niệm khả năng trí nhớ của chúng ta như vùng sáng được chiếu bởi một đèn dầu. Với quên thông thường khi ta vặn đèn càng nhỏ thì vùng sáng càng mờ và thu hẹp lại. Khi ta vặn to thì điều ngược lại sẽ xảy ra. Còn trong quên phân ly ta thấy có những vùng bị bôi đen hoàn toàn trong khi những vùng khác vẫn sáng bình thường. Gọi là "Có khoảng trống trong trí nhớ".
(2). Giải thể nhân cách (depersonalization): Như chúng ta đã biết ở phần trên về giải thể nhân cách. Xin lưu ý là nhân cách trong hoạt động tâm thần không liên quan những khái niệm đạo đức. Chúng ta không nên hiểu giải thể nhân cách là không còn đạo đức. Hãy quan niệm rằng giải thể nhân cách nghĩa là tất cả những thông tin về cái tôi đã bị mất đi. Bệnh nhân không còn những thông tin cá nhân, quên những lĩnh vực sở trường, quên hết các mối quan hệ. Ví dụ coi người thân đang đứng bên cạnh mình như người xa lạ. Hầu như tại thời điểm đó chúng ta không thể quan sát được một chút nào là cái tôi bản ngã của người bệnh. Bệnh nhân thường thể hiện bằng một cái tôi khác hoặc là bối rối vì không có thông tin về cái tôi cụ thể. Cũng có thể bệnh nhân thấy hoạt động tâm thần tách hoàn toàn khỏi cái tôi. Lúc đó bệnh nhân tự quan sát mình như đang quan sát một người khác.
(3).Tri giác sai thực tại (derealization): Nhận thức của bệnh nhân về môi trường xung quanh thay đổi hoặc bị làm méo mó đi. Bệnh nhân có thể cảm nhận môi trường xung quanh trở nên mờ ảo, xa xăm hơn. Sự vật và con người thay đổi về kích thước, màu sắc và hình dáng. Thậm chí bệnh nhân có thể cảm nhận một thực tế hoàn toàn không giống với những gì đang hiện hữu. Một trong những triệu chứng được nhắc đến nhiều là không nhận ra chính mình trong gương. Chính vì điều này mà một số tác giả nói về những người bị rối loạn phân ly bằng cụm từ "Người lạ trong gương" (The stranger in the mirror).
Về mặt thính giác, bệnh nhân có thể nghe được những âm thanh trong trẻo hay mê đắm... Gây những cảm xúc dương tính. Hay gặp là bệnh nhân có thể nghe được những tiếng nói từ cõi âm hay trên trời xuống. Trong tâm thần học được gọi là "ảo thanh". Nó khác với ảo thanh của bệnh nhân tâm thần phân liệt là chỉ xuất hiện nhanh và mất đi nhanh. Đặc biệt là nội dung của ảo thanh sẽ phong phú hơn nếu như kết hợp với hiện tượng bị nhập.
(4). Rối loạn nhận biết bản thân (identity confusion): Nhóm triệu chứng này cũng đã được nhắc ở những phần trên. Khi những thông tin cá nhân bị "chặn" lại bệnh nhân sẽ thiếu những thông tin về cái tôi cụ thể. Lúc đó họ sẽ ở trong trạng thái bối rối. Những lời nói và hành vi của bệnh nhân sẽ không có quan điểm và thiếu định hướng vì không gắn với cái tôi cụ thể.
(5). Thay đổi nhận biết bản thân (identity alteration): Bệnh nhân đang từ một người này sẽ được lập trình trong nhận thức thành một người khác. Quá trình này xảy ra rất nhanh như chúng ta nhấn công tắc để chuyển vật từ trạng thái này sang trạng thái khác. Chính vì vậy Freud đã dùng từ "swich" hay "shift". Ta có thể bắt gặp nhà ngoại cảm nhập hồn Bác Hồ nói giọng nghệ an và cũng hút thuốc lá. ICD-10 gọi là đa nhân cách (multiple personality disoder).
Nếu bệnh nhân trải nghiệm các nhóm triệu chứng trên xảy ra họ sẽ vô cùng ngạc nhiên và sau đó tin tưởng vào những cảm nhận lệch lạc này. Chúng ta đã được nghe các "nhà ngoại cảm" mô tả những gì cảm nhận được lần đầu có cảm giác gọi là "ngoại cảm". Họ đang ở tận cùng của khổ đau, tuyệt vọng hay bất kỳ một cảm xúc tiêu cực quá mức nào đó đột nhiên thấy nhẹ nhàng như không sau đó là cảm nhận được những thứ được gọi là "ngoại cảm". Thực ra đó là lúc hoạt động tâm thần được lập trình vào vùng vô thức như đã trình bày ở trên.
Nghĩa là chúng ta có thể hình dung như sau: Sang chấn tâm lý nặng nề - Cơ chế bảo vệ - Phân ly- Các triệu chứng phân ly = "Ngoại cảm".
Vậy "ngoại cảm" là gì?
Thực ra chỉ là những cảm nhận méo mó, không đúng về môi trường gọi là tri giác sai sự thật (derealization) và mất những cảm nhận thông tin về cái tôi của bản thân gọi là loạn cảm giác bản thể (identity disorder) hay giải thể nhân cách (depersonalization). Những sai lầm, méo mó về bản thân và thực tại là chiến lược thích nghi trước các sang chấn tâm lý nặng nề nhằm bảo vệ "cái tôi" trong hoạt động tâm thần. Không có bất cứ yếu tố tâm linh nào xen vào. Việc gắn vào những tấm áo tâm linh hay dị đoan có thể do những "nhà ngoại cảm" không thể lý giải được những hiện tượng này nên họ buộc phải tìm đến thế giới vô hình. Cũng không loại trừ đây là chiêu thức hành nghề khi họ đã trở nên nổi tiếng.
Lên đồng và bị nhập (Trance and possesion)
ICD-10 xếp loại rối loạn này là một thể của rối loạn phân ly có mã số chẩn đoán F44.3 trong khi DSM-V lại xếp thể này vào các loại phân ly không biệt định.
Loại rối loạn này khá đặc trưng bởi 2 nhóm triệu chứng của rối loạn phân ly đó là tri giác sai sự thật và thay đổi nhận biết bản thân.
Tất nhiên giống như các loại rối loạn phân ly khác, lên đồng và bị nhập cũng là phản ứng bảo vệ của hoạt động tâm thần khi đứng trước những tình huống khó khăn, ngặt nghèo và những trải nghiệm cảm xúc quá mức (overwhelm).
Những người trong trạng thái này gần như bị lú lẫn tâm thần hay "tẩu hoả nhập ma". Họ giường như bị cách ly với thực tại và đang sống trong một thế giới khác. Kèm theo đó họ trở thành một người khác hoàn toàn trong nhận thức gọi là bị nhập hồn mà phần lớn là hồn những người chết. Họ đưa ra những lời phán xét mang tính khẳng định về những vấn đề nào đó mà thường là những vấn đề này đang được họ và những người xung quanh quan tâm. Tất nhiên là bản thân họ rất tin vào những điều mình nói vì họ thực sự đã trải nghiệm. Điều này khiến cho những người xung quanh dễ bị ám thị lời nói của họ. Cả bệnh nhân và người nghe đều không lý giải được và thường dùng đến cứu cánh là những lý giải mang tính tâm linh hay dị đoan tuỳ theo nhận thức của mỗi người. Việc những người chứng kiến đem những chuyện này ra kể sẽ làm tăng tính ám thị với người khác. bởi như một quy luật, những người kể thường có xu hướng phóng đại những điều đã chứng kiến để tăng mức độ tin tưởng nơi người nghe.
Tuy nhiên chúng ta sẽ băn khoăn là tại sao khi không có tình huống gây cảm xúc quá mức hiện hữu mà những ông đồng bà cốt vẫn có thể lên đồng và bị nhập?
Những người này thường có cách sống và nói năng khá đặc trưng, gọi là những người đồng bóng. Họ có những nét khác thường hơn khiến cho người ta dễ nhận ra.
Có thể kể ra những tính cách riêng của họ là: dễ xúc động, dễ thể hiện cảm xúc, hành vi, thái độ thường ẻo lả, bốc đồng và thái quá. Những người này được gọi là người có "căn đồng". Tức là trong những tình huống cụ thể họ có thể dễ dàng lên đồng.
Tại sao họ lại có căn đồng? Nếu các bạn đã từng chứng kiến và biết một vài ông đồng bà cốt nào đó có thể thấy quá khứ của họ có những nét đặc biệt riêng. Những người phụ nữ không chồng, những người đàn ông ẻo lả hay những người đàn bà cứng cỏi, những người có quá khứ bất hạnh...
Tóm lại ẩn chứa đằng sau "căn đồng" là một cuộc sống tâm lý không thể giải toả, không lối thoát. Có thể tâm lý này đã được giải toả ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên do họ đã từng sống trong thời gian dài với tâm lý này trong quá khứ nên cơ chế bảo vệ đã được sử dụng rất nhiều lần đến nỗi chỉ cần "khơi mào" là nó xuất hiện ngay. Hiện tượng này chúng ta đã biết qua khái niệm modullation của Freud.
Nếu các bạn đã từng xem một buổi hầu đồng ở Bắc bộ và Thanh hoá thì thấy rất rõ. Người không có căn đồng sẽ không thể lên đồng và nhập hồn. Người sắp lên đồng sẽ được trùm bằng một khăn màu đỏ sau đó đội lên đầu một mâm có đồ cúng. Xung quanh gồm có gia chủ và những người hầu đồng. Không khí khá linh thiêng và huyền bí. Những người hầu đồng vừa hát vừa gõ nhịp và nhảy múa theo các điệu hát văn. Không gian đặc sánh mùi nhang. Người đội mâm cũng lắc lư và múa theo nhịp hát cho tới lúc đột nhiên hét lên hay nói những lời khác thường. Có lẽ một phần do phải tập trung cân bằng mâm cúng trên đầu, phần khác là bị cách ly khỏi môi trường cùng với không khí huyền ảo nên sẽ dễ dàng cho cơ chế bảo vệ xuất hiện. Lúc đó họ thực sự đang trải nghiệm những cảm giác lên đồng và bị nhập. dĩ nhiên nội dung của cảm giác đó như thế nào lại hoàn toàn phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể. Thông thường những người hành nghề đồng cốt trước khi lên đồng đã biết qua về nội dung cần họ phải đề cập. Có lẽ chính vì vậy mà nội dung của của lên đồng ít nhiều đều liên quan đến điều thân chủ đang muốn
Những người làm nghề dựa vào những trải nghiệm phân ly thường có xu hướng "biên tập" lại nội dung những điều mình cảm nhận cho hợp lý. Thậm chí không loại trừ có thể có bịa chuyện vì đây cũng là triệu chứng của phân ly.
Nhà ngoại cảm, họ là ai?
Như vậy thì những "nhà ngoại cảm" thực chất cũng không hơn gì những ông đồng bà cốt. Những người này có thể gặp vô khối ngoài đời. Họ có những trải nghiệm tâm lý tuyệt vọng không lối thoát để cơ chế bảo vệ xuất hiện một cách thường xuyên. Những thứ được cho là "ngoại cảm" thực sự là những cảm nhận sai do hoạt động tâm thần được "lập trình" để mỗi chúng ta tồn tại trước những thực tế ngặt nghèo. Như vậy có nghĩa là những điều nhà ngoại cảm nói ra hoàn toàn không có cơ sở để tin tưởng.
Có những nhà ngoại cảm nói đúng các chi tiết của một sự việc nào đó thì liệu có phải là sự sắp đặt có chủ đích? "Nhà ngoại cảm" vẫn có thể nói đúng về một sự việc nào đó. Tuy nhiên chỉ với xác suất vô cùng nhỏ của ngẫu nhiên. Cũng giống như chúng ta nói bâng quơ về một việc gì đó thì vẫn có xác suất đúng xảy ra dù rất nhỏ.
Vậy vấn đề là tại sao "nhà ngoại cảm" lại được không ít người tin tưởng? Theo tôi có những lý do sau:
(1) Các trải nghiệm phân ly khiến lối nói của "nhà ngoại cảm" mang tính ám thị cao, kể cả bịa chuyện, hay biết trước (không có cơ sở) cũng được nói như thật không chút ngại ngùng.
(2) Khi coi "ngoại cảm" như một nghề thì chắc chắn "nhà ngoại cảm" cũng có những ngón nghề nhất định. Chắc chắn "nhà ngoại cảm" sẽ "biên tập" lại nội dung của những trải nghiệm phân ly.
(3)Không loại trừ khả năng có một ê- kíp đứng sau "nhà ngoại cảm". Cá nhân tôi nhận thấy một số bài viết kể lại sự việc một cách có sắp đặt và có mục đích quảng bá cho "nhà ngoại cảm".
(4) Sự ngây thơ trong niềm tin của cộng đồng cũng là một lý do. Cộng đồng thường có thiên hướng tin vào những điều không lý giải được. Niềm tin này được nhân lên bởi sự lan truyền bằng miệng. Qua mỗi lần truyền miệng nó lại được khoác thêm những chi tiết ly kỳ cũng như những tấm áo thần bí.
(5) Hình như tiếng nói ủng hộ của những tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cũng tăng tính ám thị cho những "nhà ngoại cảm" trongcộng đồng./.
Các bạn muốn trực tiếp nói chuyện với những bệnh nhân loại này xin mời ghé thăm khoa cán bộ quốc tế bệnh viện tâm thần trung ương2!