Nhà thuốc Sao Đỏ Phú Thọ

Nhà thuốc Sao Đỏ Phú Thọ Dược sĩ chuyên khoa 1 Trần Đình Bách
Thuốc tân dược, biệt dược, TPCN, y dụng cụ thông thường DSCKI Trần Đình Bách

SỬ DỤNG THUỐC CHO NGƯỜI SUY GIẢM CHỨC NĂNG GAN, THẬNI. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẶC ĐIẺM SINH LÝ, BỆNH LÝ GAN, THẬN 1. Vai trò...
17/12/2025

SỬ DỤNG THUỐC CHO NGƯỜI SUY GIẢM CHỨC NĂNG GAN, THẬN

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẶC ĐIẺM SINH LÝ, BỆNH LÝ GAN, THẬN
1. Vai trò của gan và thận trong chuyẻn hoá và thải trừ thuốc
Gan và thận là hai cơ quan giữ vai trò trọng yếu trong quá trình dược động học cuả thuốc. Giữa chúng có sự phối hợp nhịp nhàng: gan biến đổi, thận loại bỏ
Khi chức năng gan, thận suy giảm, quá trình chuyển hoá và thải trừ thuốc bị ngưng trệ, tăng nguy cơ xảy ra ngộ độc và các phản ứng có hại cuả thuốc (Adverse Drug Reaction - ADR) nghiêm trọng.
• Chuyển hoá thuốc (Metabolism) chủ yếu được xử lý tại gan như sau:
- Biến đổi thuốc thành các chất chuyển hoá có thể phát huy tác dụng dược lý hay dạng dễ đào thải hơn:
- Làm thay đổi hoạt tính của thuốc.
- Biến đổi dạng không có hoạt tính của thuốc (một số từ tiền chất) thành dạng có hoạt tính
- Quá trình chuyển hoá làm thay đổi hoạt tính của thuốc, đồng thời cũng là quá trình giải độc của cơ thể đối với thuốc. Tuy nhiên có một số thuốc sau chuyển hóa có thể tăng tác dụng, tăng độc tính
- Phần lớn các thuốc đều qua chuyển hoá trong quá trình phát huy tác dụng cho đến khi thải trừ. Tuy nhiên, có số ít thuốc không bị biến đổi, phát huy tác dụng và thải trừ nguyên dạng.
- Chuyển hoá có thẻ xảy ra ở một hoặc nhiều chặng ở các tổ chức thận, phổi, lách, máu.. nhưng chủ yếu ở gan.
Chính vì vậy, ở người bệnh suy gan, đặc biệt xơ gan, chức năng tế bào gan bị suy giảm; hậu quả giảm khả năng biến đổi, chuyển hóa thuốc, hạn chế tác dụng chính của thuốc và tăng độc tính đối với nhiều thuốc chuyển hoá chính ở gan.
• Thải trừ thuốc (Excretion) chủ yếu được thực hiện qua thận
- Khi bị suy thận, tốc độ lọc qua cầu thận giảm, tất cả các quá trình lọc, thải trừ, tái hấp thu đều bị ảnh hưởng, đặc biệt là lọc tại cầu thận và bài tiết chủ động.
- Suy giảm chức năng thận gây ứ trệ tuần hoàn đồng nghĩa giảm bài xuất thuốc và chất chuyển hóa còn hoạt tính, đó là nguyên nhân dẫn đến gia tăng kéo dài nồng độ thuốc trong máu, tăng nguy cơ tích lũy thuốc và tăng độc tính.
Suy thận còn ảnh hưởng đến đào thải thuốc qua gan. Sự ứ trệ thuốc ở dạng còn hoạt tính có thể kéo theo tình trạng suy gan do thuốc.
Vì lẽ đó, người suy giảm chức năng gan, thận được coi là nhóm đối tượng đặc biệt, cần cá thể hoá điều trị.
2. Những lưu ý khi dùng thuốc cho người bệnh suy giảm chức năng gan, thận:
- Đối với người bệnh có dấu hiệu suy giảm chức năng gan, thận, cần nắm bắt đầy đủ thông tin về tình trạng bệnh.
• Nguyên tắc chung lựa chọn thuốc:
- Ưu tiên dùng các thuốc: ít chuyển hoá qua gan, ít độc với thận, có khoảng liều điều trị rộng
- Tránh dùng các thuốc có khoảng liều điều trị điều trị hẹp, có chất chuyển hoá độc, thuốc gây độc gan, độc thận trực tiếp
• Điều chỉnh liều và chế độ dùng thuốc
- Hãy bắt đầu với liều thấp và tăng từ từ
- Cần giảm liều từng lần hoặc kéo dài khoảng cách giữa các lần dùng
- Tránh dùng liều cao nếu không cần thiết
• Cá thể hoá theo mức độ suy gan, suy thận, độ tuổi, cân nặng, các bệnh lý khác mắc đồng thời
• Theo dõi, xử trí trong quá trình dùng thuốc điều trị
- Phải theo dõi dấu hiệu ngộ độc thuốc
- Tại cơ sở điều trị phải xét nghiệm gan, thận định kỳ để phát hiện sớm tình trạng tăng men gan, tăng creatinin, phù, thiểu niệu
- Điều chỉnh kịp thời khi có các chỉ số và dấu hiệu bất lợi theo các cách: giảm liều, dừng thuốc, thay thuốc khác an toàn hơn
• Dùng thuốc hỗ trợ nhằm hạn chế tác hại
- Bảo vệ gan bằng các thuốc: Acid Ursodeoxycholic, các thuốc bổ gan tăng cường chức năng gan: Biphenyl Dimethyl Dicarboxylat (BDD), Arginin, Methionin, L.Ornithin - L.Aspartat, Silymarin, Silibinin,
- Bảo vệ thận bằng cách đảm bảo đủ nước, tránh phối hợp nhiều thuốc độc thận
- Tránh rượu bia và các thảo dược không rõ nguồn gốc
• Đối với người suy giảm chức năng thận:
- Bắt buộc phải hiệu chỉnh liều hoặc kéo dài khoảng cách giữa các lần dùng.
- Theo dõi chặt các dấu hiệu độc tính, đặc biệt là các thuốc có khoảng điều trị hẹp để xử trí liều hoặc thay thế thuốc kịp thời
- Tránh dùng (nếu có thể) hoặc sử dụng thận trọng (trong trường hợp bất khả kháng không thể thay thế) các thuốc gây độc thêm cho thận.
- Chọn các thuốc được chuyển hoá chính qua gan (nếu có thể)
• Đối với người suy giảm chức năng gan:
- Giảm liều đối với các thuốc có độ thanh thải phụ thuộc vào chuyển hóa gan (nhất là những thuốc chuyển hóa mạnh lần đầu ở pha 1). Ưu tiên chọn dùng các thuốc chuyển hóa chủ yếu ở pha 2 (dưới dạng liên hợp) sẽ ít bị ảnh hưởng hơn các thuốc chủ yếu ở pha 1. Nội dụng này xem thêm tại “Quá trình hấp thu, phân bố, chuyển hoá và thải trừ thuốc” đã nêu tại phần 2, phụ lục.
- Các trường hợp suy gan nặng bị bệnh não gan thì cần tránh các thuốc ức chế thần kinh trung ương.
- Giảm liều các thuốc có gắn kết Protein cao, đi đôi theo dõi nồng độ thuốc tự do (nếu có thể).
- Tránh dùng hoặc theo dõi sát khi dùng các thuốc có nguy cơ gây độc gan.
II. NHỮNG NHÓM THUỐC CẦN CHỐNG CHỈ ĐỊNH HOẶC THẬN TRỌNG KHI DÙNG
1. Đối với người suy giảm chức năng gan:
• Các thuốc chống chỉ định:
- Paracetamol liều cao (trên 4gr mỗi ngày), kéo dài dễ gây hoại tử tế bào gan cấp
- Các thuốc hoá trị điều trị ung thư dều độc với cả gan và thận: Cisplatin, Methotrexat, Doxorubicin, Gemcitabin, Capecitabin, Oxaliplatin... gây độc trực tiếp lên gan và thận
- Nhóm các thuốc sinh học hướng đích cũng có thể gây độc với gan. Mức độ ảnh hưởng và gây độc với thận ít hơn (tuỳ vào thuốc cụ thể).
- Các thuốc chống lao: Isoniazid, Rifampicin, Pyrazinamid độc với gan, có thể suy gan.
- Estrogen liều cao gồm thuốc tránh thai phối hợp liều cao, gây ứ mật, tăng men gan. Không được dùng ở giai đoạn gan tiến triển
- Các thuốc an thần kinh thế hệ cũ (Clopromazin, Haloperidol, Levomepromazin...), thuốc chống động kinh (Carbamazepin, Phenytoin, Phenobarbital, Valproate, Phenytoin...) cũng đều độc với gan.
- Các thuốc chống đông: Warfarin và nhóm chống đông đường uống trực tiếp (Dabigatran, Rivaroxaban, Apixaban, Edoxaban...) chống chỉ định ở bệnh nhân suy gan nặng và suy gan vừa.
+ Heparin cũng được cảnh báo có thể gây tăng men gan, không có CCĐ tuyệt đối, nhưng cần thận trọng.
- Rượu và chế phẩm chứa cồn, làm tăng nặng tổn thương gan
• Các thuốc cần thận trọng, giảm liều:
- Nhóm NSAIDs: Diclofenac, Ibuprofen, Indomethacin, Piroxicam, Meloxicam, Celecoxib... độc với gan, có thể làm tăng men gan, gây viêm gan cấp.
- Nhóm Benzodiazepin: Diazepam, ... dùng liều cao có thể tích lũy gây hôn mê gan
- Các dẫn chất Opioid: Morphin, Codein... cần giảm liều và theo dõi sát
- Các kháng sinh chuyển hóa qua gan: Macrolid, Imidazol, Lincosamid, Quinolon, phối hợp Amoxicillin - Clavulanate... cần theo dõi men gan
- Thuốc chống nấm nhóm Azol: Clotrimazol, Econazol, Fluconazol, Ketoconazol, Miconazol... và Griseofulvin đường uống, có thể gây viêm gan cấp. Không dùng cho bệnh nhân gan nặng
- Thận trọng khi dùng các thuốc giảm huyết áp nhóm ức chế men chuyển (Enalapril, Captopril...) và nhóm ức chế thụ thể Angiotensin II (Losartan, Telmisartan, Candesartan...), tuy nhiên chống chỉ định với người bệnh xơ gan mất bù.
- Các thuốc giảm Lipid huyết nhóm Statin: Atorvastatin, Lovastatin, Rosuvastatin, Simvastatin... có thể gây tăng men gan, nên tránh nếu viêm gan tiến triển.
- Thuốc lợi tiểu (Thiazid, Furosemid) dễ gây rối loạn điện giải, thúc đẩy hôn mê gan.
- Các thuốc trị đái tháo đường: Glibenclamid, Gliclazid, Metformin... chống chỉ định với người suy gan nặng.
- Các Corticoid dùng liều cao, dài ngày có thể gây nhiễm mỡ gan.
- Thận trọng khi dùng các thuốc có khoảng điều trị hẹp (còn được gọi là khoảng trị liệu... thực ra là các thuốc có liều thường dùng và liều độc sát nhau): Digoxin, Lithium, Theophyllin, Levothyroxin, Warfarin (và một số thuốc chống đông tương tự: Acenocoumarol, Heparin), một số thuốc chống động kinh (Phenytoin, Carbamazepin, Phenobarbital,Valproic acid...)
- Vitamin B3 (Niacin) khi dùng liều cao hay dạng giải phóng kéo dài; chống chỉ định hoặc cần thận trọng tối đa ở người bị bệnh gan tiến triển và suy gan,
- Một số thuốc khác cũng cần được sử dụng thận trọng:
+ Isotretinoin... cũng có thể gây viêm gan.
+ Thuốc sốt rét (Amiodiaquin, Mepraquin...) gây rối loạn chức năng gan;
+ Thuốc giun (Thiabenzol) vừa gây rối loạn chức năng gan, vừa gây ứ mật
2. Đối với người suy giảm chức năng thận:
• Các thuốc chống chỉ định:
- Các kháng sinh gây độc cho thận, không hồi phục:
+ Nhóm Aminosid: Gentamicin, Tobramycin, Amikacin... là nhóm có độc tính cao nhất với thận.
+ Các kháng sinh khác (dùng liều cao, kéo dài): một số Cephalosporin và Penicillin (liều cao, kéo dài); các kháng sinh nhóm Quinolon (Ciprofloxacin, Levofloxacin, Pefloxacin, Norfloxacin, Ofloxacin...); Vancomycin; Polymyxin B, Colistin.
+ Đối với các trường hợp suy thận nặng, nếu sử dụng (khi không có thay thế) bắt buộc phải chỉnh liều tối thiểu, có theo dõi.
- Các thuốc nhóm NSAIDs: Ibuprofen, Naproxen, Diclofenac, Celecoxib, Indomethacin, Piroxicam.. giảm lưu lượng máu đến thận, gây tổn thương thận cấp tính
- Thuốc cản quang Iod, có thể gây tổn thương thận hoặc suy thận cấp. Người bệnh suy thận phải đánh giá chức năng thận trước khi dùng và cần các biện pháp bảo vệ thận.
- Lithium thải trừ qua thận, nhưng tích lũy gây độc, có thể gây tổn thương thận mạn tính
- Các thuốc hoá trị ung thư: Cisplatin, Methotrexat, Bleomycin, Cyclophosphamid, Dacarbazin... độc với cả gan và thận
- Metformin (khi bị suy thận nặng), nguy cơ bị nhiễm toan Lactic
• Các thuốc cần thận trọng, giảm liều:
- Các kháng sinh thải trừ qua thận: Betalactam, Fluoroquinolon, Vancomycin...
+ Các kháng sinh nhóm Sulfonamid không có CCĐ tuyệt đối nhưng cũng được cho là không nên dùng (do có thể lắng cặn thận, gây tắc nghẽn, nhất là những thuốc có độ tan thấp).
- Các thuốc kháng virus: Cidofovir:Adefovir, Tenofovir, Indinavir, Ganciclovir, Foscarnet, Didanosin... đều làm giảm đáp ứng của thận với Hormon chống bài niệu, gây suy thận mạn, số trường hợp teo thận.
- Digoxin và các Glycosid tim, thải trừ chủ yếu qua thận, có thể tích lũy nguy cơ gây loạn nhịp tim.
- Insulin, bị giảm khả năng thải trừ, có nguy cơ hạ đường huyết
- Thuốc giảm huyết áp nhóm ức chế men chuyển (ACEI): Enalapril) và nhóm ức chế thụ thể Angiotensin (ARB): Losartan, Telmisartan, Candesartan ... giảm áp lực lọc cầu thận quá mức, làm giảm tốc độ lọc cầu thận và gây tổn thương thận cấp, đồng thời gây tăng Kali máu .
- Thuốc lợi tiểu: Furosemid... nguy cơ rối loạn điện giải
- Thuốc chống nấm: Amphotẻicin B có thể làm nặng thêm bệnh thận
- Nhóm các thuốc sinh học hướng đích trị ung thư có thể gây độc với thận (tuỳ vào thuốc cụ thể).
- Các thuốc giảm mỡ máu (Fibrat, Statin) làm giảm chức năng thận và tăng men gan (GOT, GPT).
- Một số thuốc nhóm Opioids: Codein, Morphin (chất chuyển hóa có hoạt tính tích lũy).
- Thuốc hạ acid Uric: Allopurinol (hiếm xay ra), gây viêm thận
- Thuốc đông y, thảo dược không rõ nguồn gốc.
Tổng hợp tại bài viết chưa thể đầy đủ khi mà luôn có sự xuất hiện của các sản phẩm thuốc mới, cũng như những phát sinh tác dụng không mong muốn, những phản ứng có hại của thuốc (ADR) trong quá trình sử dụng. Chính vì vây, mỗi khi sử dụng các thuốc mới, sản phẩm mới, khi thầy thuốc chưa nắm đầy đủ tác dụng không mong muốn, cần phải tra cứu cụ thể trước khi sử dụng.
Đối với người bệnh có chức năng gan, thận nói chung bị suy giảm đồng nghĩa khả năng chuyển hoá và thải trừ thuốc của các cá thể đó cũng bị ngưng trệ, luôn có nguy cơ xảy ra ngộ độc và các phản ứng có hại cuả thuốc, không đảm bảo an toàn.
Việc sử dụng thuốc cho người suy giảm chức năng gan, thận (đặc biệt là ở mức độ suy gan, suy thận) cần được lưu ý, giám sát chặt chẽ mỗi khi dùng thuốc.
Có thể tóm lược lại các nguyên tắc cơ bản quan trọng là:
- Hạn chế và tránh sử dựng các thuốc gây độc cho gan, cho thận (nếu có thể) để không tăng nặng thêm tình trạng bệnh nền.
- Cần giảm liều đối với các thuốc có độc tính cao được chuyển hoá và thải trừ chính qua gan, thận và các thuốc có khoảng điều trị hẹp.
- Trong quá trình sử dụng thuốc cần theo dõi các biến cố về lâm sàng và kiểm soát chỉ số chức năng gan, thận để xử trí kịp thời và an toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dược thư quốc gia Việt Nam 3 năm 2022, Bộ Y tế ban hành tại Quyết định số 3445/QĐ-BYT ngày 23.12.2022, chuyên đề Sử dụng thuốc ở người suy giảm chức năng gan, thận (trang 47-49)
2. Sử dụng thuốc cho người bị suy giảm chức năng thận, đăng trên Website Điều trị, bài viết có địa chỉ đường dẫn: https://www.dieutri.vn/bgduoclamsang/su-dung-thuoc-cho-nguoi-bi-suy-giam-chuc-nang-than
3. Thận trọng về nguy cơ tổn thương thận cấp do thuốc ở người cao tuổi; đăng trên Website Trung tâm DI và ADR quốc gia; bài viết có đường dẫn: https://magazine.canhgiacduoc.org.vn/Magazine/Details/241
4. Nhiễm độc thận do thuốc diệt virus; đăng trên Website Bệnh viện Bạch Mai; có địa chỉ đường dẫn: https://bachmai.gov.vn/bai-viet/nhiem-doc-than-do-thuoc-diet-virut?
5. Người mắc bệnh thận nên tránh những loại thuốc nào ? đăng trên Website Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, bài viết có địa chỉ đường dẫn: https://bvnguyentriphuong.com.vn/kien-thuc-duoc-cho-cong-dong/nguoi-mac-benh-than-nen-tranh-nhung-loai-thuoc-nao
6. Những lưu ý khi dùng thuốc ở người bệnh gan; đăng trên Website Danapha, có địa chỉ đường dẫn: https://www.danapha.com/vi/tu-van-chi-tiet/nhung-luu-y-khi-dung-thuoc-o-nguoi-benh-gan.html
7. Bốn loại thuốc dễ gây tổn thương gan; đăng trên Website Báo Sức khoẻ đời sống, có địa chỉ đường dẫn: https://suckhoedoisong.vn/4-loai-thuoc-de-gay-ton-thuong-gan-169250104131631277.htm
8. Tổn thương gan do thuốc gây ra; đăng trên Website MSD MANUAL, phiên bản dành cho chuyên gia, có địa chỉ đường dẫn: https://www.msdmanuals.com/vi/professional/rối-loạn-về-hệ-gan-và-mật/thuốc-và-gan/tổn-thương-gan-do-thuốc-gây-ra
9. Các thuốc thường gây tổn thương gan, đăng trên Website Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, bài viết có địa chỉ đường dẫn: https://bvnguyentriphuong.com.vn/duoc-lam-sang-cho-cong-dong/cac-thuoc-thuong-gay-ton-thuong-gan

SƠ ĐỒ PHỐI HỢP KHÁNG SINH
11/12/2025

SƠ ĐỒ PHỐI HỢP KHÁNG SINH

ĐÔI ĐIỀU CẦN TRÁNH VỀ THÓI QUEN VÀ CÁCH HỌC HỎI SỬ DỤNG THUỐC CỦA DƯỢC SĨ MỚI VÀO NGHỀ VÀ NGƯỜI DÙNG THUỐC KHÔNG CÓ KIẾN...
08/12/2025

ĐÔI ĐIỀU CẦN TRÁNH VỀ THÓI QUEN VÀ CÁCH HỌC HỎI SỬ DỤNG THUỐC CỦA DƯỢC SĨ MỚI VÀO NGHỀ VÀ NGƯỜI DÙNG THUỐC KHÔNG CÓ KIẾN THỨC Y DƯỢC

Một số dược sĩ mới vào nghề (cả một số người dùng thuốc) đăng lên vài thuốc rồi hỏi đây là thuốc gì do khách (và chính người dùng thuốc đó) bảo dùng liều này "nhậy lắm" nhưng không hề biết nhậy do gì ? và "nhậy" với bệnh gì. Thực ra nhận xét "nhậy lắm" này đúng nghĩa chỉ là với giảm triệu chứng. Cũng không loại trừ đó là cách điều trị sai nguyên tắc, lỗi thời của DƯỢC SĨ còn hạn chế về chuyên môn.
Tôi không có ý đánh giá chê bai mà muốn có đôi lời góp ý, nhưng dám khẳng định chắc chắn đó là cách học hỏi mơ hồ chết người, cực kỳ máy móc và thiếu khoa học, sai cơ bản về nguyên tắc học nghề y dược.
- Trăm người trăm bệnh, có cơ địa dị ứng, có bệnh nền và đặc điểm bệnh lý, tuổi tác, thể trạng khác nhau. Không chọn lọc thuốc, không chỉnh lý rất có thể tai biến, cũng không loại trừ có thêm bất lợi.
- Cùng một hay nhiều triệu chứng như nhau, nhưng lại là bệnh và nguyên nhân bệnh hoàn toàn khác nhau, cần phải có cách điều trị và dùng các thuốc hoàn toàn khác nhau, thậm chí có tác dụng trái ngược nhau.
Một vài ví dụ:
+ Hội chứng lỵ do trực khuẩn (Shigella) hoặc do Amip (Entamoeba histolitica) hay viêm đại tràng mãn và hội chứng ruột kích thích cùng có biểu hiện đau bụng đi ngoài, trướng bụng đầy hơi.
+ Trào ngược dạ dày thực quản (GERD) và đau thắt ngực hoặc hoặc nhồi máu cơ tim... đều có cơn đau ngực hoặc nóng rát sau xương ức...
+ Cúm mùa, sốt do virus, sốt xuất huyết (ở giai đoạn đầu), sốt phát ban, sởi, hay COVID-19 cùng đau mỏi cơ khớp, sốt, đau đầu, mệt mỏi
+ Hen phế quản, tắc nghẽn phổi mãn tính COPD và một số bệnh khác gây khó thở tương tự…
+ Tăng huyết áp và tụt huyết áp đều gây đau đầu, mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, buôn nôn... nhưng hoàn toàn trái ngược nhau về cơ chế bệnh...
Đừng nghĩ sẽ dùng thuốc như nhau, "nhậy lắm" sẽ khỏi ngay. Đặc biệt đối với bệnh tim mạch lại càng có tính đặc hiệu chuyên biệt, tính cá thể về điều trị rất cao, dùng sai thuốc có thể chết người ngay.
- Cùng một bệnh nhưng do nhiều nguyên nhân và tác nhân khác nhau cần có cách điều trị và dùng thuốc hoàn toàn khác nhau:
+ Đau khớp có thể do goute, do viêm khớp dạng thấp, do thoá hoá, do nhiễm khuẩn, tràn dịch... khác nhau hoàn toàn về nguyên nhân.
+ Đau đầu Migrain do co thắt mách não, do chấn thương
+ Đái dường typ 1 và typ 2 cùng tác nhân nhưng khác nhau về cơ chế bệnh sinh ...
- Cùng một thuốc nhưng không phải đối tượng nào cũng dùng được
+ Các thuốc giảm đau, hạ nhiệt chống viêm (NSAIDs) không thể dùng cho người bị hen phế quản và cho người viêm loét dạ dày.
+ Quá nhiều thuốc chống chỉ định với người có thai, tuyệt đối không được sử dụng.
+ Đặc biệt cùng một thuốc nhưng với cá thể bị mẫn cảm tuyệt đối không được dùng (đặc biệt là các kháng sinh)...
+ Người bị suy giảm chức năng gan, thận phải sử dụng rất nhiều thuốc khác với người bình thường...
+ Người đã bị dị ứng với một thuốc nào đó, tuyệt đối không được tiếp tục sử dụng (kể cả liều rất thấp).
- Chưa bàn sâu đến không ít thuốc cho cùng một trị liệu chỉ được dùng sau khi đã dùng hết toàn bộ một thuốc khác sau một thời gian nhất định hoặc các thuốc bắt buộc dùng khi đã có các đáp ứng phù hợp của cơ thể.
Một vài ví dụ:
+ Trong điều trị tiêu chảy do nhiễm khuẩn không được dùng thuốc cầm đi ngoài khi chưa khắc chế được vi khuẩn gây bệnh
+ Trong thai sản, không được phép dùng Cytotec (Misoprostol) khi Mifepriston (Mifestad) chưa có đáp ứng hiệu quả. Đặc biệt, tuyệt đối không được dùng các thuốc co hồi tử cung khi thai chưa ra ngoài.
- Tất cả các tài liệu chuyên môn về y, dược đều cảnh báo: không dùng theo đơn cũ, không dùng đơn của người khác...
Do vậy, học hỏi cập nhật thường xuyên là rất đáng quí và vô cùng cần thiết. Nhưng xin có lời thành tâm, là dược sĩ đừng học theo cách đó; kể cả người dùng cũng đừng nên sử dụng theo mách bảo từ người không hiểu chuyên mộn.
- Việc học hỏi, tham khảo cách sử dụng thuốc của đồng nghiệp, của các bậc tiền bối là điều đáng giá, rất nên làm. Tuy nhiên việc học hỏi nhất thiết phải làm trong tầm kiểm soát của dược sĩ: tài liệu tham khảo liệu có phải đáng tin cậy không? đúng, sai ? đó là những thuốc gì ? vai trò và tác dụng của nó đôí với bệnh hiện hữu ra sao.
- Xem một lô thuốc (hay đơn thuốc) được chỉ định hãy xem và nghĩ ngay đến dùng cho bệnh gì (tránh đơn thuần chỉ nghĩ đến triệu chứng: giảm ho ngay, hết đau liền, dễ thở luôn...) ? Nếu tìm hiểu kỹ hơn về nguyên nhân và những yếu tố cần khắc chế càng quí (tất nhiên không thể ngay mà cần có thời gian và cần có tìm hiểu, học hỏi thêm).
- Đừng học mót, đừng dò đoán, học lỏm nửa vời mà chẳng hiểu thuốc đó tác dụng gì và vai trò mỗi thuốc cụ thể trong liều ra sao. Học kiểu này, rất dễ mắc sai lầm lần sau có thể bê nguyên xi liều thuốc đó "úp sọt" cho một căn bệnh khác ở người khác có triệu chứng na ná giống.
Tôi gặp rất nhiều trường hợp người bệnh cho xem các liều thuốc đã mua của dược sĩ (chuyên môn còn hạn chế) rất nực cười: chỉ toàn các thuốc giảm triệu chứng, thuốc hỗ trợ và thuốc khắc phục tác dụng phụ (của một trong các thuốc đó) mà không hề có thuốc chính điều trị nguyên nhân; thậm chí có cả thuốc không hề liên quan. Có thể họ có giảm đỡ triệu chứng, nhưng đã lầm bệnh sẽ không khỏi.
Nên lưu ý rằng dùng thuốc điều trị bất cứ bệnh gì cũng phải dùng:
1. Thuốc trị nguyên nhân là chính, có tính quyết định (những bệnh vô căn thì không thể). Đó là các thuốc nhằm vào:
- Tiêu diệt tác nhân vi sinh vật gây bệnh vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm,...
- Khắc phục, thiết lập lại cân bằng các rối loạn về chuyển hoá, sinh lý của cơ thể.
- Bù đắp các thiếu hụt năng lượng, dưỡng chất và khoáng chất..
- Loại trừ các kháng nguyên, dị nguyên tác động vào cơ thể
- Tăng cường và bổ xung kháng thể trực tiếp hoặc gián tiếp giúp cơ thể loại trừ tác nhân
- Một số ở các điều kiện đặc biệt, thiết lập các đột biến về gen, tế bào... để khống chế, loại trừ
- Tạo ra đối kháng tác dụng (dược lý, hoá học, vật lý...) với các tác nhân gây độc, hại.
2. Thuốc cắt giảm triệu chứng
Chỉ nhằm mục đích khắc phục giảm nhanh các triệu chứng khó chịu, bất lợi. Người không am hiểu về chuyên môn y dược dễ ngộ nhận bệnh đã khỏi khi triệu chứng lui.
3. Thuốc hỗ trợ giúp tăng cường các chức năng liên quan bệnh lý hoặc tăng cường tác dụng thuốc chính.
4. Thuốc ngăn ngừa các tác dụng phụ bất lợi của các thuốc dùng điều trị (có thể cần dùng, nhưng ko có vai trò trị bệnh đang điều trị).
Ví dụ giảm tiết dịch nếu dùng NSAIDs; bổ gan trong trị lao và tâm thần...
Như vậy, có thể thấy, học hỏi, cập nhật thông tin và kiến thức thường xuyên là thói quen rất đáng trân trọng, đồng thời cũng là yêu cầu tất yếu đối với mọi dược sĩ đang hành nghề. Tuy nhiên cách học, cách tiếp cận mới là điều rất cần lưu ý. Không thận trọng, không xem xét có thể tiếp nhận thông tin, kiến thức không chính xác, thậm chí sai lạc, trái chiều từ các nguồn không tin cậy có thể làm rối loạn mọi kiến thức đã được đào tạo. Vô tình học mà càng làm cho bản thân càng thêm rối, càng yếu kém và lạc hậu so với sự tiến bộ, phát triển thì là sai lầm vô cùng lớn.

MẶT TRÁI CỦA AI TRONG LĨNH VỰC Y TẾ Nên nhớ rằng AI vô cùng thông minh, có khả năng tổng hợp và xử lý "siêu nhanh" mọi l...
28/11/2025

MẶT TRÁI CỦA AI TRONG LĨNH VỰC Y TẾ

Nên nhớ rằng AI vô cùng thông minh, có khả năng tổng hợp và xử lý "siêu nhanh" mọi loại kiến thức, từ tất cả các nguồn thông tin.
Tuy nhiên trong lĩnh vực y tế và khoa học kỹ thuật còn phụ thuộc vào kiến thức của người yêu cầu thông tin.
Đôi khi chỉ cần nhầm lẫn một từ, thậm chí có khi chỉ 1 ký tự thì AI đã cho thông tin phản hồi sai hoàn toàn.
Đôi khi chính AI cũng mắc lỗi mà không phải là luôn luôn chính xác 100%. Chỉ người có kiến thức chuyên sâu mới có thể nhận ra.
Một lần tôi hỏi một số kiến thức tổng hợp về thuốc "AN THẦN KINH", viết rất đúng từ chuyên môn. Nhưng tròn mắt khi "anh AI" cho một bài trả lời rất kỹ lưỡng, dài dằng dặc về thuốc "AN THẦN" hoàn toàn khác yêu cầu.
Như vây đủ biết AI vô cùng thông minh dù có tới 99% chính xác !! nhưng vẫn có thể 1% tạo nên một thông tin sai hoàn toàn.

ĐBQH Trần Khánh Thu kể câu chuyện một bệnh nhân được đưa đến bệnh viện cấp cứu trong tình trạng lơ mơ, do con gái nhờ trí tuệ nhân tạo (AI) chẩn đoán bệnh, tự ý ra tiệm mua thuốc.

CẦN BIẾT VỀ THUỐC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VỪA ĐƯỢC CẤP PHÉP CÁC BIỆT DƯỢC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐƯỢC CẤP PHÉP LƯU HÀNH KHÔNG PHẢI LÀ...
14/11/2025

CẦN BIẾT VỀ THUỐC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VỪA ĐƯỢC CẤP PHÉP

CÁC BIỆT DƯỢC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐƯỢC CẤP PHÉP LƯU HÀNH KHÔNG PHẢI LÀ THUỐC NGHIÊN CỨU MỚI, CHỈ LÀ HOẠT CHẤT ĐƯỢC SỬ DỤNG TỪ NHIỀU NĂM NAY

Trong đợt cấp phép SĐK lần thứ 57 này (tại QĐ số 628/QĐ-QLD ngày 31/10/2025 của Cục QLD) có 3 thuốc điều trị ung thư đều là kháng thể đơn dòng được SX bằng công nghệ tái tổ hợp DNA (liệu pháp gen).

Cụ thể:
1. PEMBROLIZUMAB:
Là thuốc đã được lưu hành lần đầu tại Mỹ từ 2014 dưới tên biệt dược gốc là KEYTRUDA của MSD.
Việt Nam đã cấp SĐK cho phép sử dụng từ năm 2017.
Sản phẩm cấp phép lần này có tên biệt dược là PEMBROMIE có giá rẻ chỉ bằng ~ 1/3 so với biệt dược gốc do đã hết bảo hộ độc quyền ? (18 triệu so với 62 triệu mỗi lọ), người bệnh giảm bớt được ~70% chi phí thuốc.
Ưu điểm của thuốc là có tác dụng với khá nhiều loại bệnh ung thư (gần 20 loại ung thư), trong khi nhiều thuốc trị ung thư có tính đặc hiệu chọn lọc cho rất ít loại ung thư.
Tuy nhiên tại quyết định này riêng PEMBROMIE là thuốc được cấp SĐK có điều kiện. Tại khoản 5, điều 2 của quyết định chỉ rõ:
"Thuốc số thứ tự 1 tại phụ lục quyết định này (tức là thuốc PEMBROMIE): sau khi được cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, công ty phải định kỳ 03 tháng một lần kể từ ngày cấp giấy đăng ký lưu hành thực hiện cập nhật tiến độ triển khai nghiên cứu lâm sàng theo dõi tính sinh miễn dịch pha III và nộp hồ sơ thay đổi, bổ sung cập nhật dữ liệu theo dõi tính sinh miễn dịch pha III khi thời gian nghiên cứu kết thúc".
Có nghĩa là:
- Thuốc này được phép lưu hành có điều kiện.
- Khi chính thức đưa vào sử dụng điều trị, yêu cầu công ty đứng tên đăng ký phải thực hiện đánh giá tương đương sinh học trên lâm sàng so với thuốc gốc (vẫn là cùng hoạt chất đó).
Xin làm rõ thêm về đánh giá tương đương sinh học là:
Việc chứng minh hai chế phẩm thuốc (Pembromie và biệt dược gốc Keytruda) là tương đương nhau về sinh khả dụng (ở đây là khả năng phát huy tác dụng sinh miễn dịch) khi được dùng cùng liều lượng, cho cùng đối tượng, trong cùng điều kiện thử nghiệm.
Mục tiêu cuối là chứng minh, khẳng định hai thuốc này có thể thay thế cho nhau (tương đương điều trị) về mặt hiệu quả và tính an toàn.
Do vậy người bệnh không nên hoang mang hiểu nhầm là cấp phép thử nghiệm thuốc mới mà cho rằng người dùng thuốc là "chuột bạch" như một số bài đăng cổ suý,phân tích sai lệch vì:
- Pembrolizumab là thuốc đã được nghiên cứu thử nghiệm thành công, được công nhận về hiệu quả và tính an toàn.
- Thuốc đã được lưu hành sử dụng an toàn hơn 10 năm nay trên thế giới và chính tại Việt Nam.

2. DARATUMUMAB:
Là thuốc đã được cấp phép lưu hành lần đầu từ năm 2015.
Tại Việt Nam, biệt dược chứa hoạt chất này là DARZALEX đã được cấp SĐK cho phép lưu hành tại Việt Nam lần đầu năm 2019.
Lần này tái cấp SĐK vẫn biệt dược đó chứ không phải là thuốc mới.
Thuốc có phạm vi tác dụng điều trị hẹp chỉ đặc hiệu đối với ung thư các tế bào u tủy và một số tế bào tạo máu khác.

3. RITUXIMAB:
Là thuốc đã được cấp phép lưu hành cách đây gần 30 năm (từ 1997). Đã có thể coi thuốc này như là một thuốc kinh điển lâu năm.
Tại VN, biệt dược chứa hoạt chất này có tên MABTHERA cũng đã được cấp phép lưu hành từ năm 2011.
Biệt dược được cấp SĐK cho lưu hành lần này có tên RUXIENCE
Thuốc có phạm vi tác dụng điều trị hẹp, chỉ đặc hiệu đối với ung thư máu và ức chế miễn dịch trong một số bệnh tự miễn
Do vậy, không nên thổi phồng là thuốc mới thần kỳ đưa vào thử nghiệm và sử dụng.
Các báo và trang mạng đưa tin không chính xác làm cho nhiều người không có kiến thức về y tế lầm tưởng đây là các thuốc mới được nghiên cứu phát minh.

4. Một thuốc kháng thể đơn dòng mới được cho là hiệu quả cao nhất hiện nay là DOSTARLIMAB:
Đã được cấp phép tại Mỹ từ 2021 dưới tên JEMPERLI. Tuy nhiên thuốc điều trị ung thư có tính đặc hiệu cao. Thuốc này được biết là để điều trị ung thư nội mạc tử cung.
Thuốc đã có dùng tại VN nhưng chưa được cấp phép lưu hành chính thức. Giá quá cao so với khả năng của người dùng VN (~11.000USD/lọ ~ 300 triệu VNĐ/lọ cho 1 lần tiêm)

Hãy đừng vội dùng những thuốc không có giá trị tuyệt đối (có giá thành quá cao) khi mà các thuốc truyền thống có giá thành hợp lý đang cho kết quả cuối cùng tương tự nhau.
Tuy nhiên các trường hợp ung thư đã bị kháng các thuốc thông dụng (hoặc hiệu quả hạn chế) thì việc dùng các thuốc mới, thuốc có cường độ tác dụng mạnh, có cơ chế khác là điều rất cần thiết và cấp bách.

CẦN BIẾT VỀ THUỐC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VỪA ĐƯỢC CẤP PHÉP CÁC BIỆT DƯỢC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐƯỢC CẤP PHÉP LƯU HÀNH KHÔNG PHẢI LÀ...
13/11/2025

CẦN BIẾT VỀ THUỐC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VỪA ĐƯỢC CẤP PHÉP

CÁC BIỆT DƯỢC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ ĐƯỢC CẤP PHÉP LƯU HÀNH KHÔNG PHẢI LÀ THUỐC NGHIÊN CỨU MỚI, CHỈ LÀ HOẠT CHẤT ĐƯỢC SỬ DỤNG TỪ NHIỀU NĂM NAY

Trong đợt cấp phép SĐK lần thứ 57 này (tại QĐ số 628/QĐ-QLD ngày 31/10/2025 của Cục QLD) có 3 thuốc điều trị ung thư đều là kháng thể đơn dòng được SX bằng công nghệ tái tổ hợp DNA (liệu pháp gen).

Cụ thể:
1. PEMBROLIZUMAB:
Là thuốc đã được lưu hành lần đầu tại Mỹ từ 2014 dưới tên biệt dược gốc là KEYTRUDA của MSD.
Việt Nam đã cấp SĐK cho phép sử dụng từ năm 2017.
Sản phẩm cấp phép lần này có tên biệt dược là PEMBROMIE có giá rẻ chỉ bằng ~ 1/3 so với biệt dược gốc do đã hết bảo hộ độc quyền ? (18 triệu so với 62 triệu mỗi lọ), người bệnh giảm bớt được ~70% chi phí thuốc.
Ưu điểm của thuốc là có tác dụng với khá nhiều loại bệnh ung thư (gần 20 loại ung thư), trong khi nhiều thuốc trị ung thư có tính cá biệt chọn lọc cho rất ít loại ung thư.
Tuy nhiên tại quyết định này riêng PEMBROMIE là thuốc được cấp SĐK có điều kiện. Tại khoản 5, điều 2 của quyết định chỉ rõ:
"Thuốc số thứ tự 1 tại phụ lục quyết định này (tức là thuốc PEMBROMIE): sau khi được cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, công ty phải định kỳ 03 tháng một lần kể từ ngày cấp giấy đăng ký lưu hành thực hiện cập nhật tiến độ triển khai nghiên cứu lâm sàng theo dõi tính sinh miễn dịch pha III và nộp hồ sơ thay đổi, bổ sung cập nhật dữ liệu theo dõi tính sinh miễn dịch pha III khi thời gian nghiên cứu kết thúc".
Có nghĩa là:
- Thuốc này được phép lưu hành có điều kiện.
- Khi chính thức đưa vào sử dụng điều trị, yêu cầu công ty đứng tên đăng ký phải thực hiện đánh giá tương đương sinh học trên lâm sàng so với thuốc gốc (vẫn là cùng hoạt chất đó).
Xin làm rõ thêm về đánh giá tương đương sinh học là:
Việc chứng minh hai chế phẩm thuốc (Pembromie và biệt dược gốc Keytruda) là tương đương nhau về sinh khả dụng (ở đây là khả năng phát huy tác dụng sinh miễn dịch) khi được dùng cùng liều lượng, cho cùng đối tượng, trong cùng điều kiện thử nghiệm.
Mục tiêu cuối là chứng minh, khẳng định hai thuốc này có thể thay thế cho nhau (tương đương điều trị) về mặt hiệu quả và tính an toàn.
Do vậy người bệnh không nên hoang mang hiểu nhầm là cấp phép thử nghiệm thuốc mới mà cho rằng người dùng thuốc là "chuột bạch" như một số bài đăng cổ suý,phân tích sai lệch vì:
- Pembrolizumab là thuốc đã được nghiên cứu thử nghiệm thành công, được công nhận về hiệu quả và tính an toàn.
- Thuốc đã được lưu hành sử dụng an toàn hơn 10 năm nay trên thế giới và chính tại Việt Nam.

2. DARATUMUMAB:
Là thuốc đã được cấp phép lưu hành lần đầu từ năm 2015.
Tại Việt Nam, biệt dược chứa hoạt chất này là DARZALEX đã được cấp SĐK cho phép lưu hành tại Việt Nam lần đầu năm 2019.
Lần này tái cấp SĐK vẫn biệt dược đó chứ không phải là thuốc mới.
Thuốc có phạm vi tác dụng điều trị hẹp chỉ đối với ung thư các tế bào u tủy và một số tế bào tạo máu khác.

3. RITUXIMAB:
Là thuốc đã được cấp phép lưu hành cách đây gần 30 năm (từ 1997). Đã có thể coi thuốc này như là một thuốc kinh điển lâu năm.
Tại VN, biệt dược chứa hoạt chất này có tên MABTHERA cũng đã được cấp phép lưu hành từ năm 2011.
Biệt dược được cấp SĐK cho lưu hành lần này có tên RUXIENCE
Thuốc có phạm vi tác dụng điều trị hẹp, chỉ đối với ung thư máu và ức chế miễn dịch trong một số bệnh tự miễn
Do vậy, không nên thổi phồng là thuốc mới thần kỳ đưa vào thử nghiệm và sử dụng.
Các báo và trang mạng đưa tin không chính xác làm cho nhiều người không có kiến thức về y tế lầm tưởng đây là các thuốc mới được nghiên cứu phát minh.

4. Một thuốc kháng thể đơn dòng mới được cho là hiệu quả cao nhất hiện nay là DOSTARLIMAB:
Đã được cấp phép tại Mỹ từ 2021 dưới tên JEMPERLI. Tuy nhiên thuốc điều trị ung thư có tính biệt hoá cao. Thuốc này được biết là để điều trị ung thư nội mạc tử cung.
Thuốc đã có dùng tại VN nhưng chưa được cấp phép lưu hành chính thức. Giá quá cao so với khả năng của người dùng VN (~11.000USD/lọ ~ 300 triệu VNĐ/lọ cho 1 lần tiêm)

Hãy đừng vội dùng những thuốc không có giá trị tuyệt đối (có giá thành quá cao) khi mà các thuốc truyền thống có giá thành hợp lý đang cho kết quả cuối cùng tương tự nhau.
Tuy nhiên các trường hợp ung thư đã bị kháng các thuốc thông dụng (hoặc hiệu quả hạn chế) thì việc dùng các thuốc mới, thuốc có cường độ tác dụng mạnh, có cơ chế khác là điều rất cần thiết và cấp bách.

Address

C6WP+FG Phú Thọ, Việt Nam (Khu 1, Phường Phú Thọ)
Phu Tho

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Nhà thuốc Sao Đỏ Phú Thọ posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Nhà thuốc Sao Đỏ Phú Thọ:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram