09/12/2021
Huyết áp cao ảnh hưởng đến cơ thể bạn như thế nào?
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2015, cứ 4 người nam hay 5 người nữ, có 1 người bị tăng huyết áp. Một khảo sát gần đây cho thấy, gần 1/3 người lớn ở vùng thành thị Đông Nam Á có huyết áp cao. Tương tự, ở Việt Nam tỷ lệ này là 25% đối với người trên 25 tuổi, trong đó gần 60% người bị tăng huyết áp chưa được phát hiện và trên 80% chưa được điều trị. Và cứ 5 người tăng huyết áp được điều trị, chỉ có 1 người đạt được kiểm soát huyết áp. (1)
Huyết áp là áp lực máu trong lòng mạch, gồm có hai trị số: huyết áp tâm thu (số đầu) là áp lực máu trong lòng mạch lúc tim co bóp và huyết áp tâm trương (số sau) là áp lực máu trong lòng mạch lúc tim thư giãn (ví dụ: huyết áp 120/70 mmHg). Hệ thống mạch máu trong cơ thể giống như các ống dẫn, đưa máu đến các cơ quan.
Hệ thống ống dẫn này nếu chịu một áp lực cao lâu ngày sẽ bị phình giãn (thành ống yếu đi, dễ bị rách hay vỡ), hoặc cứng lại mất tính đàn hồi mềm mại, hoặc lớp bên trong bị tổn thương và tích tụ các mảng xơ vữa gây hẹp và bít tắc dần. Tất cả các mạch máu lớn (động mạch chủ, động mạch cảnh, động mạch đùi…) và mạch máu nhỏ (mạch máu ở đáy mắt, cầu thận, não…) toàn thân đều bị ảnh hưởng bởi bệnh tăng huyết áp.
Tăng huyết áp lâu ngày có thể dẫn đến những biến chứng gì?
Các biến chứng của tăng huyết áp gồm:
Nhồi máu cơ tim ;
Đột quỵ;
Suy tim;
Phình bóc tách động mạch chủ;
Tổn thương thận;
Mù mắt;
Bệnh động mạch ngoại biên;
Rối loạn cương dương;
Rối loạn trí nhớ và sa sút trí tuệ.
Tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch tăng khi huyết áp cao. Với mức huyết áp (HA) bình thường 115/75 mmHg, cứ mỗi mức tăng HA thêm 20/10 mmHg, nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch sẽ nhân lên gấp đôi. (2)
Ví dụ, người có mức HA 135/85 mmHg có nguy cơ tử vong tim mạch gấp đôi người có HA 115/75 mmHg; người có HA 155/95 mmHg thì nguy cơ tăng gấp 4 lần, mức HA 175/105 mmHg nguy cơ tăng gấp 8 lần và 195/115 thì nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch tăng gấp 16 lần người có huyết áp bình thường.
Mối liên quan giữa tăng huyết áp và đột quỵ
Theo thống kê của Hoa Kỳ, cứ mỗi 40 giây có một bệnh nhân đột quỵ, mỗi 4 phút có 1 người tử vong do đột quỵ. Đột quỵ có khuynh hướng xảy ra ở người cao tuổi, nhưng không hiếm ở người trẻ tuổi. Có đến 34% người nhập viện vì đột quỵ dưới 65 tuổi.
Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nước ta. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng đưa đến đột quỵ. Người có huyết áp cao > 160/100 mmHg tăng 4,3 lần nguy cơ bị xuất huyết não. Khoảng 50% người bệnh nhồi máu não có kèm tăng huyết áp.
Đột quỵ là tình trạng một phần của não bị ngừng cấp máu đột ngột do vỡ mạch máu (gọi là xuất huyết não) hoặc do cục máu đông hay mảng xơ vữa gây tắc nghẽn hoàn toàn một mạch máu nuôi vùng não đó (gọi là nhồi máu não), làm người bệnh bất tỉnh hoặc yếu liệt. (3)
Thời gian vàng để điều trị nhồi máu não là trong vòng 3 giờ đầu khi bắt đầu có triệu chứng. Do đó, người bệnh phải đến bệnh viện ngay khi có một trong các dấu hiệu cảnh báo sau:
Đột ngột tê cứng hoặc yếu mặt, tay hoặc chân, đặc biệt ở nửa bên người (bên phải hoặc bên trái);
Đột ngột lú lẫn, nói khó hoặc có vấn đề về hiểu ngôn ngữ;
Đột ngột mất thị lực hoặc có vấn đề về nhìn ở một hoặc hai bên mắt;
Đột ngột yếu liệt tay chân, không đi lại được, không giơ tay lên được, chóng mặt, mất thăng bằng, không kiểm soát được động tác;
Đột ngột nhức đầu dữ dội mà không tìm ra nguyên nhân.
Mối liên quan giữa tăng huyết áp và nhồi máu cơ tim
Một nghiên cứu cho thấy 30 – 40% bệnh nhân nhồi máu cơ tim ST chênh lên, 70% nhồi máu cơ tim không ST chênh lên có bệnh nền tăng huyết áp trước đó.
Huyết áp cao làm tăng xơ vữa mạch máu, thành mạch cứng hơn và dễ bị tổn thương. Các mảng xơ vữa bám trong lòng mạch vành (là mạch máu nuôi cơ tim) gây hẹp dần lòng mạch, không dẫn đủ máu nuôi cơ tim khi tim cần làm việc gắng sức, gây ra triệu chứng mệt, đau ngực khi gắng sức.
Mảng xơ vữa này có thể đột ngột bị vỡ ra do stress hoặc do huyết áp cao, các tế bào máu (hồng cầu, tiểu cầu) đến bám vào chỗ thành mạch bị tổn thương này, tạo nên cục huyết khối cấp tính, gây tắc nghẽn hoàn toàn mạch vành và đưa đến nhồi máu cơ tim cấp. (4)
Các dấu hiệu cảnh báo nhồi máu cơ tim cấp cần nhập viện ngay gồm:
Đau tức ngực trái hoặc sau xương ức dữ dội, đau lúc nghỉ ngơi, kéo dài trên 20 phút, đau lan lên cổ, cằm, vai, cánh tay hay sau lưng. Trong cơn đau kèm vã mồ hôi, hốt hoảng, khó thở, bứt rứt, huyết áp và nhịp tim thường tăng trong cơn đau;
Người lớn tuổi có thể có triệu chứng không điển hình khác như rối loạn tri giác (lừ đừ, ngủ gà hay hôn mê) hoặc khó thở, khò khè, nôn ói hoặc ngất xỉu.
Mối liên quan giữa tăng huyết áp và bệnh thận mạn
Bệnh nhân tăng huyết áp lâu ngày sẽ gây tổn thương thận, làm giảm chức năng thận. Ngược lại, có khoảng 5% trường hợp bệnh nhân bị tăng huyết áp là do hậu quả của bệnh chủ mô thận mãn tính (ví dụ, bệnh nhân viêm cầu thận mãn trước đó, đưa đến suy giảm chức năng thận và gây cao huyết áp).
Huyết áp cao làm tăng áp lực lọc nước tiểu trong các cầu thận (là đơn vị lọc nước tiểu trong thận), lâu ngày gây tổn thương màng lọc ở cầu thận đưa đến tiểu đạm (khi xét nghiệm nước tiểu thấy có protein hoặc microalbumine trong nước tiểu, nhìn bằng mắt thường không thấy được).
Ở bệnh nhân tăng huyết áp, xét nghiệm nước tiểu thấy có đạm niệu là có tổn thương ở thận. Mức độ tiểu đạm càng nhiều khi tổn thương thận càng nặng, nhất là khi huyết áp không được điều trị ổn định. Khi thận bị tổn thương, mức độ lọc để đào thải nước và chất độc ra khỏi cơ thể giảm dần, làm ứ đọng các chất này trong cơ thể gây triệu chứng phù, mệt mỏi, chán ăn, ngứa ngoài da.
Thận có chức năng cân bằng chất điện giải (natri, kali, phospho…) cho cơ thể nên người bệnh thận mạn mức độ nặng có thể bị tăng kali máu do giảm đào thải. Kali máu tăng trên 6.0 mmol/L dễ bị rối loạn nhịp tim hay ngưng tim. Ngoài ra, thận còn có chức năng tiết hormone erythropoietin có tác dụng tạo ra hồng cầu. Khi suy thận nặng, chất này do thận tiết ra bị thiếu hụt, làm cho người bệnh bị thiếu máu mãn tính. Người bệnh sẽ có triệu chứng mệt mỏi, xanh xao.
Dựa vào xét nghiệm creatinine máu có thể tính được độ lọc cầu thận ước lượng (theo công thức được tính toán sẵn). Khi độ lọc cầu thận < 15ml/phút kéo dài từ 3 tháng trở lên được coi là suy thận mạn giai đoạn cuối, người bệnh cần được xem xét chỉ định điều trị thay thế thận với bác sĩ chuyên khoa.