03/09/2020
GLÔCÔM: KẺ ĂN CẮP THỊ LỰC THẦM LẶNG
Trong bài này chúng tôi sẽ gửi tới các bạn những vấn đề cơ bản nhất về bệnh lý glôcôm (Thiên đầu thống), bao gồm: thế nào là bệnh glôcôm, nguyên nhân, triệu chứng, các phương pháp điều trị.
Bệnh glôcôm là gì?
Glôcôm là một bệnh lý khá nghiêm trọng của mắt và có thể là nguyên nhân dẫn đến mù lòa. Bệnh lý này sẽ gây tổn thương đầu thị thần kinh, đây là dây thần kinh dẫn truyền tín hiệu từ mắt tới não. Tổn thương nay làm mất thị lực không hồi phục.
Hầu hết các hình thái của glôcôm đều không có các triệu chứng ở giai đoạn sớm và chỉ có thể được phát hiện khi được khám mắt ở các cơ sở chuyên sâu. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh sẽ gây mất dần dần thị trường chu biên, thậm chí gây mù lòa.
Nếu bệnh nhân bắt đầu cảm nhân được thị lực mình giảm do bệnh lý glôcôm thì đây là giai đoạn khá muộn của bệnh. Các tổn thương này không có khả năng hồi phục, thậm chí nó vẫn còn tiến triển ngay cả khi bắt đầu được điều trị.
Chỉ có một cách duy nhất giúp mọi người có thể tránh được tổn thương thị lực, thậm chí mù do bệnh glôcôm là phải đi khám mắt tại các cơ sở chuyên sâu theo định kỳ ít nhất 1 năm 1 lần.
“Chỉ có các bác sỹ nhãn khoa được đào tạo chuyên sâu mới có thể giúp bệnh nhân phát hiện glôcôm ở giai đoạn sớm và điều trị bệnh khi chưa có tổn thương thị lực”.
Nguyên nhân gây bệnh glôcôm?
Trong mắt luôn tiết ra thủy dịch. Với một lượng thủy dịch được tiết ra thì cũng một lượng thủy dịch đó được hấp thu qua một vùng trong mắt gọi là vùng bè. Quá trình bài tiết và hấp thu này luôn cân bằng tạo nên áp lực trong mắt (nhãn áp) bình thường. Khi vùng bè không hoạt động tốt sẽ gây tích tụ thủy dịch trong mắt gây tăng nhãn áp. Khi tăng nhãn áp sẽ gây tổn thương đầu thị thần kinh, gây ra bệnh lý glôcôm.
Hầu hết các trường hợp bị glôcôm là do áp lực trong mắt (nhãn áp) cao hơn bình thường – được gọi là tăng nhãn áp. Tuy nhiên các trường hợp nhãn áp trong giới hạn bình thường vẫn có thể bị bệnh glôcôm – trường hợp này gọi là glôcôm nhãn áp không cao.
Cơ chế gây ra bệnh glôcôm.
Yếu tố nguy cơ có bệnh glôcôm?
- Người trên 40 tuổi.
- Trong gia đình có người bị bệnh glôcôm.
- Mắt có nhãn áp cao.
- Mắt bị viễn thị hoặc cận thị.
- Mắt có tiền sử chấn thương.
- Người sử dụng steroid toàn thân hoặc tra mắt kéo dài.
- Mắt có giác mạc mỏng vùng trung tâm.
- Mắt có viền thị thần kinh mỏng.
- Người có bệnh tiểu đường, đau nửa đầu, tăng huyết áp, rối loạn tuần hoàn não …
Các loại glôcôm và triệu chứng
Có 2 loại glôcôm chính là glôcôm góc mở nguyên phát và glôcôm góc đóng. Ngoài ra còn các loại glôcôm khác là glôcôm nhãn áp không cao, glôcôm bẩm sinh và glôcôm thứ phát.
Glôcôm góc mở nguyên phát:
Đây là loại glôcôm gặp nhiều nhất. Trong glôcôm góc mở nguyên phát, vùng bè trong có vẻ bình thường về mặt cấu trúc nhưng khả năng dẫn lưu thủy dịch thấp. Hầu hết các bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát đều không nhận thấy sự thay đổi về thị lực đến khi có tổn thương nặng về thị lực. Chính vì vậy glôcôm được coi là “kẻ ăn cắp thị lực thầm lặng”.
Glôcôm góc đóng:
Những người có nguy cơ bị glôcôm góc đóng thường không có triệu chứng gì đến khi có cơn cấp. Một số triệu chưng sớm của cơn cấp gồm nhìn mờ, nhìn ánh đèn có quầng xanh, quầng đỏ, nhức mắt, đâu nửa đầu. Nếu bệnh nhân có các triệu chứng này thì cần phải đi khám bác sỹ chuyên khoa mắt ngày. Các triệu chứng của glôcôm góc đóng cơn cấp gồm:
- Nhức mắt kèm đau nửa đầu
- Đỏ mắt
- Giảm thị lực hoặc nhìn mờ
- Nhìn bóng đèn có quầng xanh, quầng đỏ
- Buồn nôn
- Nôn
Glôcôm nhãn áp không cao:
Trong loại glôcôm này, đầu thị thần kinh bị tổn thương và mất thị lực xảy ra khi nhãn áp trong giới hạn bình thường. Một số nghiên cứu gần đây đưa ra giả thuyết rằng huyết áp thấp và áp lực nội sọ thấp là các yếu tố nguy cơ của glôcôm nhãn áp không cao.
Glôcôm bẩm sinh:
Một số trẻ nhỏ khi sinh ra có khiếm khuyết của góc tiền phòng dẫn đến thủy dịch không thoát ra được khỏi mắt. Thường các trẻ này sẽ có các triệu chứng đặc trưng như mắt to, giác mạc đục, kích thích với ánh sáng và chảy nước mắt nhiều.
Glôcôm thứ phát:
Đây là loại glôcôm mắc phải do biến chứng của một số bệnh lý toàn thân (như đái tháo đường, tăng huyết áp) hoặc các bệnh lý tại mắt (như đục thể thủy tinh, viêm màng bồ đào) hoặc do tác dụng phụ của thuốc dùng toàn thân và tra tại mắt (dùng steroid kéo dài) hoặc do chấn thương mắt trước đây.
Chẩn đoán bệnh glôcôm:
Một cách duy nhất để chẩn đoán bệnh glôcôm là được khám mắt một cách chuyên sâu. Việc khám glôcôm, chỉ kiểm tra nhãn áp là không đủ. Khi khám glôcôm, bác sỹ chuyên khoa mắt cần các bước kiểm tra sau:
- Đo thị lực, nhãn áp
- Soi góc tiền phòng
- Soi đáy mắt kiểm tra các tổn thương của đầu thị thần kinh
- Làm thị trường
- Chụp OCT đo độ dày lớp sợi thần kinh của g*i thị
Điều trị glôcôm:
Có một vài phương pháp điều trị glôcôm, gồm: sử dụng thuốc, phẫu thuật ít xâm lấn, laser và các phương pháp phẫu thuật khác.
Điều trị glôcôm quan trọng nhất là không để tiếp tục mất thị lực của bệnh nhân. Tuy nhiên sẽ không thể phục hồi thị lực đã mất do bệnh này gây ra.
Điều trị glôcôm phụ thuộc vào loại glôcôm, mức độ nặng và khả năng đáp ứng với các phương pháp điều trị mà bác sỹ sẽ quyết định sử dụng thuốc hay phẫu thuật hoặc sử dụng kết hợp cả 2 biện pháp này cho bệnh nhân.
Ths.Bs. Nguyễn Thế Hồng