20/11/2025
- BỆNH NHƯỢC CƠ -
THIÊN Y QUÁN DỊCH VÀ BIÊN SOẠN
I . Đại cương
Bệnh nhược cơ (Myasthenia Gravis, MG) là một bệnh tự miễn do kháng thể của cơ thể tấn công thụ thể acetylcholine tại màng sau synap ở chỗ nối thần kinh cơ, khiến sự dẫn truyền tín hiệu giữa thần kinh và cơ bị cản trở. Biểu hiện đặc trưng là cơ nhanh chóng mệt mỏi, yếu lực, đặc biệt ở các nhóm cơ như cơ vận nhãn, cơ nhai, cơ liên sườn, cơ tứ chi, sau vận động thì mệt rõ, xuất hiện sụp mi, khó nuốt, nặng có thể dẫn tới liệt hô hấp gây nguy hiểm tính mạng (gọi là cơn nhược cơ cấp).
Đặc điểm điển hình: buổi sáng nhẹ, chiều tối nặng, nghỉ ngơi hoặc dùng thuốc ức chế men cholinesterase thì triệu chứng tạm thời giảm hoặc hết. Tỉ lệ mắc bệnh khoảng 10–20/100.000 người.
Theo y học cổ truyền, bệnh này tương ứng với nhiều chứng khác nhau:
Nếu biểu hiện tay chân mềm yếu, vô lực, thuộc về chứng đàm trệ; Nếu sụp mi mắt là chính, thuộc chứng liệt mí (luyện phế); Nếu giọng nhỏ, nói không rõ, thuộc chứng ám á; Còn cơn nhược cơ cấp thì tương tự với chứng đại khí hạ hãm.
Tất cả đều nằm trong phạm vi Chứng nuy của Đông y.
Cơ chế bệnh theo y học cổ truyền:
Căn nguyên chủ yếu của bệnh là Tỳ Vị khí hư, Can Thận khuy tổn, khí huyết bất túc, Thận dương suy yếu, khiến gân cơ mất nuôi dưỡng mà thành.
Tỳ là hậu thiên chi bản, chủ vận hóa thủy cốc, sinh hóa khí huyết, lại chủ cơ nhục và tứ chi.
Nếu Tỳ Vị vốn yếu, hoặc bệnh lâu ngày tổn thương trung tiêu, hoặc lao lực quá độ khiến Tỳ khí hư suy, thì vận hóa kém, sinh khí huyết không đủ, cơ nhục không được nhu dưỡng sinh ra mỏi yếu, sụp mi, tứ chi vô lực, thậm chí khó thở.
Thận là tiên thiên chi bản, tàng tinh sinh tủy; Tỳ là hậu thiên chi nguyên, hóa sinh khí huyết.
Nếu Thận dương hư, không ôn ấm được Tỳ dương → tỳ dương bất chấn, vận hóa kém → tinh vi thủy cốc không sinh khí huyết → gân cơ thiếu dưỡng, tứ chi mềm yếu, nuy nhược vô lực.
Can tàng huyết, chủ cân; thận tàng tinh, chủ cốt.
Tinh huyết sung túc giúp cân cốt cường kiện; Nếu bệnh lâu, thể hư, thương Can Thận, hoặc âm hư sinh nội nhiệt, âm tinh bị thiêu đốt dẫn đến tinh huyết khuy tổn, cân nhục thất dưỡng → cơ mềm yếu, run rẩy.
Khí là soái của huyết, huyết là mẫu của khí.
Con người sống nhờ khí huyết; khí huyết sung mãn thì cơ nhục được nuôi dưỡng, thân thể mạnh khỏe. Nếu bẩm tố bất túc hoặc Tỳ Vị suy yếu hậu thiên, khiến khí huyết hư tổn, vận hành không thông, thì cơ nhục không được nhu dưỡng → mềm yếu, teo nhỏ.
Tổng luận:
Tổng hợp lại, bệnh nhược cơ do Tỳ, Thận, Can hư tổn, khí huyết hao suy, cơ nhục mất dưỡng mà thành; trong đó, khí hư là căn bản, Tỳ Thận là chủ bệnh, còn Can huyết bất túc là hệ quả.
Bệnh vị chủ yếu ở cơ nhục, liên quan chặt chẽ đến Tỳ, Thận, Can;
Bệnh tính lấy hư làm chủ, hư trung kiêm có đàm, ứ, hoặc nhiệt, tùy chứng mà biện trị.
Bệnh khởi phát thầm lặng, thường bắt đầu từ một nhóm cơ rồi dần lan đến nhiều nhóm cơ, cũng có khi khởi phát đồng thời ở nhiều nơi. Giai đoạn đầu thường biểu hiện Tỳ Vị suy nhược, trung khí bất túc. Lâm sàng hay gặp sụp mi, nhìn đôi, mệt mỏi yếu sức, chán ăn, đầy bụng, tiêu lỏng…; trong điều trị cần lấy pháp thăng dương hoặc ôn thăng để khắc phục hiện tượng sa hạ. Nếu Tỳ Vị suy yếu kéo dài khiến khí huyết sinh hoá thiếu nguồn, Can Thận tinh huyết không được bổ dưỡng thì dẫn đến Can Thận tinh huyết tổn thương, cân mạch cơ nhục mất dưỡng; lâm sàng thường kèm theo triệu chứng yếu cơ kèm lưng gối mỏi nhức, chóng mặt, ù tai… lúc này nên dùng pháp bổ ích Can Thận.
Tỳ hư kéo dài có thể ảnh hưởng đến thủy dương của thận, hoặc căn bản đã thiếu dương Thận khiến Tỳ dương mất khả năng ôn chuyển, gây Tỳ Thận dương hư; biểu hiện lâm sàng là Tỳ Thận dương hư, trị nên ôn bổ Thận dương. Nếu bệnh lâu không khỏi đến mức Tỳ khí hư cực và trung khí thoát hạ, sẽ xuất hiện khó thở, đàm dãi ứ trệ, toát mồ hôi như mưa những chứng thuộc về biểu hiện nguyên dương sắp thoát. Trong những trường hợp đó ngoài bổ khí hồi dương, củng cố thoát, cần phối hợp y học hiện đại để cấp cứu tích cực. Về phân loại lâm sàng hiện có những quan điểm chính như: Tỳ Vị khí hư, khí âm lưỡng hư, Tỳ Thận dương hư, Can Thận âm hư, và nguyên dương sắp thoát.
Trên cơ sở kế thừa và tổng kết kinh nghiệm xưa, bác Trương cho rằng bệnh phát sinh do thể chất bẩm yếu, hoặc do lao lực quá độ, hoặc do ăn uống rượu chè thất điều làm tổn thương Tỳ Thận, rồi lại cảm phải ngoại tà khiến cân mạch mất nuôi dưỡng, gốc bệnh chủ yếu là Tỳ Thận hư tổn. Ông lý giải: Tỳ là gốc của hậu thiên, nguồn sinh hoá khí huyết, đóng tại trung tiêu, là trục chủ yếu của thăng giáng khí cơ. Nếu Tỳ vững thì Phế có nguồn tân dịch, Can Thận được tư dưỡng, tông cân được nhờ, các cơ quan hoạt động thuận lợi. Vì Tỳ chủ thăng và vận, nếu Tỳ hư khí hạ thì không còn sức thăng; mí mắt thuộc về hành động thăng, Tỳ suy có thể gây mất lực nâng mí dẫn tới sụp mi; Tỳ chủ cơ nhục tứ chi, Tỳ hư khiến công năng sinh hoá nuôi dưỡng thiếu, do đó bốn chi teo yếu, không thể động dụng.
Bệnh Tỳ cũng có thể liên lụy tới Thận, như sách luận Tỳ Vị đã nêu: Tỳ bệnh thì khí hạ xuống Thận, thổ khắc thủy khiến xương yếu không lực. Thận là gốc của tiên thiên, chủ tàng tinh, chủ sinh cốt tuỷ; Thận trung có nguyên âm nguyên dương để nuôi dưỡng tứ chi và xương khớp, ôn dưỡng Tỳ thổ. Nếu Thận hư thì ngũ tạng mất sự nuôi dưỡng, cân cốt không dùng được. Vì vậy chức năng bình thường của cân mạch dựa vào sự ôn dưỡng và tư dưỡng của khí huyết, âm dương của Tỳ Thận. Về sinh lý hai tạng hỗ trợ lẫn nhau, về bệnh lý là nhân quả tương liên: “Tỳ khí hư thì vô lực để vận động, Thận khí hư thì tinh hư không thể tư dưỡng”; nói cách khác “Tỳ dương khởi nguyên từ Thận dương”, tinh khí trong thận cũng cần dựa vào tinh vi của ngũ cốc để được nuôi dưỡng. Nếu một bên hư tổn, tất sẽ ảnh hưởng sang bên kia, dẫn đến Tỳ Thận lưỡng hư và cơ nhục mất dưỡng. Tỳ thận hư tổn có thể kéo theo nhiều biến đổi trên ngũ tạng.
Do đó Thầy Trương kết luận Tỳ Thận hư tổn là căn bản bệnh lý xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình của bệnh nhược cơ nặng.